View allAll Photos Tagged phối đồ với áo da nam
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để
lại cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá, và đã
thực sự làm vơi đi rất nhiều khổ đau trong cuộc sống toàn nhân loại.
Mặc dù vậy, việc tái hiện cuộc đời ngài qua một khoảng cách thời gian quá dài
thật không phải là chuyện dễ dàng. Những phát hiện gần đây của khoa học khảo
cổ đã xác định chắc chắn sự ra đời của ngài vào năm 624 trước Công nguyên,
đặc biệt là với trụ đá có khắc chữ do vua A-dục dựng lên tại thánh tích Lam-tì-ni
(Lumbini). Tuy nhiên, những chứng cứ ấy cũng không thể giúp chúng ta hình
dung được rõ nét về cuộc đời đức Phật, qua từng giai đoạn sinh ra, lớn lên, tu tập
và thành đạo, để cuối cùng là truyền dạy giáo lý giải thoát, khai sinh ra đạo Phật
được truyền thừa mãi mãi đến nay.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, học giả Đoàn Trung Còn đã giúp chúng ta làm điều đó,
qua việc khảo sát các kinh điển và tài liệu liên quan, đồng thời kết hợp với trí
tưởng tượng và óc quan sát, miêu tả tinh tế để hình thành tập sách “Truyện Phật
Thích Ca” này. Cho dù còn nhiều hạn chế do thời điểm ra đời, cũng như với thể
loại truyện tích được chọn không mang tính sử liệu, nhưng tập sách vẫn có giá trị
giới thiệu được với đông đảo bạn đọc về cuộc đời đức Phật, bậc Đạo sư đã chỉ ra
con đường thoát khổ cho nhân loại. Bằng lối văn giản dị dễ hiểu và việc loại bỏ
những kiến thức quá sâu xa, phức tạp đối với giới bình dân, tập sách đã một thời
được đông đảo độc giả ưa thích tìm đọc.
Trong lần tái bản này, chúng tôi đã hiệu đính lại tập sách trên tinh thần giữ lại
những điểm tinh túy của tác giả, nhưng có điều chỉnh bổ sung một số kiến thức
cập nhật, cũng như nhuận sắc lại phần văn chương cho phù hợp hơn với độc giả
hiện nay. Hy vọng là với những cố gắng đó, tập sách sẽ tiếp tục là món quà tinh
thần bổ ích cho những ai bước đầu muốn tìm hiểu về đạo Phật và cuộc đời đức
Phật Thích-ca.
Cho dù đã hết sức thận trọng trong công việc, nhưng với những giới hạn nhất
định về trình độ cũng như năng lực, e rằng cũng không tránh khỏi ít nhiều sai
sót. Chúng tôi chân thành đón nhận mọi sự góp ý từ quý độc giả gần xa để tập
sách có thể hoàn thiện hơn nữa trong những lần in sắp tới.Đơn vị thực hiện liên doanh xuất bản
CÔNG TY VĂN HÓA HƯƠNG TRANG
416 Nguyễn Thị Minh Khai- P5, Q3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHHỒI THỨ NHẤT1. VUA TỊNH-PHẠN VÀ HOÀNG HẬU MA-DAKhi xưa, ở cõi Ấn Độ , gần dãy Hy-mã-lạp sơn có một thành đẹp đẽ vô cùng tên
là thành Ca-tỳ-la-ve ä. [1] Quang cảnh nơi đây rực rỡ, trong vườn hoa thơm đủ
sắc, bên tường có tiếng quyên gọi đầu cành, nhà cửa lầu đài tươi xinh sắc sảo.
Đâu đâu cũng đều được phong phú, yên vui. Châu gấm, ngọc ngà chiếu ra sáng
lòa, hòa với vẻ đẹp của gái tốt trai lành, với dinh thự nguy nga, với vầng thái
dương tươi đẹp, với bóng trăng dịu hiền trên những cành mai cụm liễu.
Khắp trong thành, nhân dân đều được bình yên vui sống. Dưới thì dân cư vừa hát
hò vừa cày cuốc, cùng nhau dệt vải hái dâu, trên thì có vua Tịnh-phạn[2] là
người đại độ khoan dung, hiền hậu và công bình. Trước kia, ngài là bậc chinh
chiến xông pha, đã từng khoác áo cầm binh mà dẹp an bờ cõi. Nay nước được
hòa thạnh, ngài lo việc trị quốc một cách tốt đẹp và có được nhiều tôi trung phò
giúp.
Ngài là dòng Thích-ca,[3] chánh hậu là bà Ma-da,[4] người có sắc đẹp, lại đức
độ. Vua và hoàng hậu đối đãi tương kính nhau và cả hai đồng lo việc phúc lợi
cho nước nhà.
Một hôm, hoàng hậu tắm gội sạch sẽ, mặc áo đoan trang, thoa ướp hương hoa,
đeo đồ quí xảo, tìm đến chỗ vua. Ngài ngự trong một cung điện rộng lớn, có
những nhạc công đang ca hát và đàn địch cho ngài nghe. Hoàng hậu đến ngồi
phía bên phải nhà vua và tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ, thần thiếp muốn cầu xin bệ
hạ một điều.”
Vua phán rằng: “Ái hậu hãy nói đi, hậu muốn trẫm ban cho điều chi?”
“Tâu Bệ hạ! Thần thiếp trông thấy người đời phải lắm nỗi khổ nên thần thiếp
thật đem lòng chán ngán. Từ đây, thần thiếp muốn lo việc giúp đỡ mọi người và
tu dưỡng tính tình, để mong sao sau này không còn những sự tham đắm trần tục
nữa. Thần thiếp sẽ dứt bỏ lòng tự cao, không còn chạy theo những điều dục
vọng, sẽ không nói những lời vô nghĩa và bao giờ cũng trọng danh dự lời nói của
mình.
“Tâu Bệ hạ! Thần thiếp muốn cho đời mình từ đây sẽ trở nên trang nghiêm, tịnh
lạc. Thần thiếp sẽ siêng trì trai giới, không còn oán hận, bỏ lòng dữ, không còn
những lo âu, đố kỵ, giận hờn, tham lam. Thần thiếp sẽ vui vẻ hài lòng với cuộc
sống của mình, với số phận. Thần thiếp sẽ cố gắng để trở nên trong sạch, theo
đường tốt dẹp mà tiến lên, làm việc phước thiện.”Bà ngưng lại giây lát. Đức vua nhìn bà, mỉm cười với vẻ trân trọng. Bà nói tiếp:
“Từ đây thần thiếp không còn muốn đắm chìm trong những cuộc vui ở cõi đời.
Thần thiếp chỉ muốn duy trì những bạn đồng tâm hợp ý, chẳng muốn phải gặp
mặt kẻ xấu xa, chẳng muốn giao tiếp những kẻ đê hèn.”
Rồi hoàng hậu im lặng. Vua phán rằng:
“Điều ái hậu vừa tâu đó, ta nghe rất hài lòng.”
Hoàng hậu đứng dậy và tâu rằng:
“Thần thiếp cảm tạ lòng thương của hoàng thượng. Mong rằng hoàng thượng
cũng sẽ mở lòng mà xá tội cho những kẻ tội phạm đã biết ăn năn hối cải, lại bố
thí cho những kẻ đói rách, hoàng thượng sẽ rộng ban ân đức cho dân được nhờ.”
Đức vua gật đầu chấp thuận. Hoàng hậu bèn lui về cung.2. HOÀNG HẬU NẰM CHIÊM BAOMột hôm, nhằm vào đầu mùa xuân, hoàng hậu nằm mộng chợt thấy một điềm
chiêm bao lạ.
Bà thấy một con voi trắng lớn từ trên trời bay xuống, đầu có ba cặp ngà. Voi
trắng bay thẳng vào lòng hoàng hậu. Liền đó, cả ngàn vị thần tiên hiện xuống
vây quanh và ca tụng bà. Lúc bấy giờ bà nghe trong người bỗng nhiên thật thanh
thoát, nhẹ nhàng, chẳng còn biết sầu lo oán hận gì cả.
Khi bà thức dậy thì những giọng hát, những tiếng nói thanh thanh dường như
hãy còn văng vẳng bên tai. Lòng bà tự dưng vui mừng khôn xiết, liền hiểu rằng
điềm mộng lành này hẳn báo trước cho một điều vui sắp tới.
Bà vội bước ra khỏi đền, có mấy cô mỹ nữ xinh đẹp theo hầu. Bà đi ngay ra
vườn hoa, cho người báo cùng đức vua.
Đức vua được tin liền ngự đến vườn hoa ngay khi ấy.
Vừa đến nơi, nhà vua bỗng có một cảm giác rất lạ lùng. Vua thấy trong người
ngây ngất, chân muốn quỳ, tay run rẩy, mắt như lòa đi.
Ngài nghĩ rằng: “Ta đã từng vào sanh ra tử, không bao giờ run sợ như lần này,
cho đến mức bước đi cũng không được, nói không ra lời. Điều này là do đâu, ta
thật không hiểu nổi!”
Vừa lúc ấy, trên thinh không có tiếng nói vang lên rằng:
“Ta mừng cho vua Tịnh-phạn! Ngài sắp có một người con là bậc cứu độ chúng
sanh trong cõi trầm luân. Vị cứu tinh ấy sắp sanh vào gia đình của ngài, là một
gia đình đạo đức cao trổi nhất trên đời, và làm con của vị hoàng hậu hiền từ đức
độ nhất trên đời.”
Vua nghe âm thanh ấy, biết là tiếng của thiên thần, liền bái tạ. Rồi vua đi vào
vườn hoa, trong lòng hớn hở vô cùng.
Vua gặp hoàng hậu liền hỏi rằng: “Hậu cho mời ta có việc gì chăng?”
Hoàng hậu bèn kể lại điềm chiêm bao tối qua và tâu vua xin cho mời các vị bà-
la-môn đến đoán mộng.Vua nghe xong liền cho người triệu đến hơn 60 vị bà-la-môn biết giải mộng. Cả
thảy nghe xong đều tâu rằng:
“Muôn tâu bệ hạ! Thật là một điềm mộng rất lành. Theo điềm ấy, hoàng hậu
chắc sẽ sanh thái tử. Ngài là bậc đáng tôn kính hơn hết trong trời đất này. Và nếu
như ngày sau, thái tử thấy cuộc đời lắm nỗi tang thương mà chạnh lòng muốn
cứu vớt hết thảy sinh linh, bèn từ bỏ ngôi báu, đền đài, dứt niềm luyến ái, đem
thân làm một tu sĩ đi tìm đạo, thì ngài sẽ trở thành bậc mà muôn đời về sau thờ
kính và sùng bái.”
Vua và hoàng hậu nghe qua rất mừng, liền phát tâm bố thí cho nhân dân thật
nhiều lương thực, vải vóc và tiền của.
Quả thật, sau điềm mộng đó, hoàng hậu thấy trong người đổi khác và biết mình
đã thọ thai.
Từ khi ấy, phong thổ trong thành càng thêm phần hòa dịu, những luồng gió mát
thổi qua khiến cho người người đều thơ thới. Trên trời có hoa quý rơi xuống và
nghe có tiếng ca hát tán tụng công đức của gia đình vua.3. THÁI TỬ RA ĐỜIThời gian thấm thoát trôi qua, ngày hoàng hậu lâm bồn sắp đến. Một hôm hoàng
hậu dạo vườn, thấy những hạc múa, công chầu. Bà ngồi trên kiệu mà trông ra
những hoa tươi, lá đẹp, trong lòng hớn hởû. Thấy vui, bà lần bước xuống kiệu,
dạo quanh trong vườn. Bỗng thấy xa xa có cây hoa quý đang rực rỡ đơm bông.
Bà liền đến gần, tay vịn một cành hoa toan hái. Nhưng vừa lúc ấy bà nghe trong
người như ngây ngất, liền đứng lặng một hồi. Thị nữ bao quanh đỡ lấy bà, thì đã
thấy chào đời một bé trai xinh đẹp. Ngay khi đó, bà tỉnh lại, mỉm cười.
Lúc ấy, không khí nơi nơi đều hoan lạc lạ thường, quả địa cầu chấn động sáu lần.
Trên trời, các vị tiên nữ múa hát dịu dàng. Khắp thế giới, các thứ cây đều đơm
hoa thơm, kết trái lành. Ánh sáng trên cao chói xuống rực rỡ.
Tin lành được truyền ngay sang cung vua. Đức vua vui mừng khôn xiết, liền vào
ngay vườn hoa. Cùng đi có nhiều thân quyến giòng họ Thích-ca và nhiều thầy
bà-la-môn uyên bác. Vua phán rằng: “Trẫm đặt tên thái tử là Sĩ-đạt-ta.”[5]
Khi ấy, các vị bà-la-môn đồng thanh ca ngợi rằng:
“Thái tử ra đời, từ đây đường đời không còn chông gai. Ngài sẽ làm cho chúng
sanh được thanh thản, an lạc. Thái tử ra đời, mặt trời và mặt trăng như bị lu mờ
vì hào quang của ngài chiếu sáng vô cùng. Ngài sẽ làm cho cảnh trần thế trở nên
quang minh. Ngài sẽ khai mở tri thức, trí khôn cho hết thảy mọi người. Ngài sẽ
cứu vớt những kẻ hoạn nạn, giúp đỡ người nghèo khốn. Lửa dữ không còn đốt
người, sông mê rồi sẽ cạn nguồn, quả đất nhẹ nhàng mà chấn động. Ngài sẽ là
người tìm ra tường tận chân lý trong vũ trụ, khai mở con đường giải thoát cho
muôn loài.”
Bấy giờ là ngày trăng tròn của tháng 4 âm lịch, vào năm 624 trước Công nguyên.4. ÔNG TIÊN ĐOÁN VẬN MẠNGBấy giờ có một vị tiên nhân đã cao tuổi, tên là A-tư-đà . [6] Nhờ tu luyện lâu
năm, ông đã đắc năm phép thần thông, có khả năng đoán biết vận mệnh trong
tương lai. Từ trên núi cao, ông đã biết việc thái tử ra đời và sẽ là người cứu độ
chúng sanh sau này. Ông liền xuống núi mà đi đến thành Ca-tỳ-la-vệ, xin vào ra
mắt vua Tịnh-phạn.
Đức vua từ lâu đã nghe danh và rất kính trọng ông, vì biết ông là người đạo cao
đức trọng, lại giỏi đoán vận mệnh. Vua liền tiếp rước ông theo đúng nghi lễ rất
trang trọng và nói rằng:
“Trẫm vừa sanh thái tử, nay được đại đức đến viếng, xin vì trẫm mà đoán cho
vận mệnh của thái tử về sau thế nào.”
Tiên A-tư-đà tâu lên rằng:
“Bệ hạ là một nhà vua khoan dung, đức độ, thương kẻ nghèo khó, trọng người
hiền tài, nên mới được trời ban phúc mà sanh ra thái tử.
“Bần đạo đã nghe chư thiên mách bảo rằng: Bệ hạ sanh thái tử, sau này sẽ tìm ra
chánh đạo mà dẫn dắt người đời. Chính vì vậy mà bần đạo mới lặn lội đến đây
mong được yết kiến thái tử.”
Nhà vua nghe qua hết sức vui mừng, liền truyền mang thái tử ra cho ông A-tư-đà
xem mặt.
Vị tiên nhân ngắm nhìn thái tử, thấy đủ vẻ hùng lực. Xem một hồi lâu rồi trao lại
cho vua mà thở dài, mắt nhuốm lệ. Đức vua lấy làm sửng sốt, liền muốn biết
nguyên do mà hỏi rằng:
“Đại đức vừa nói rằng thái tử không phải người tầm thường, ngài cũng nói trẫm
nhờ phúc đức mà sanh được thái tử. Ngài còn đoán sau này công nghiệp thái tử
sẽ được vinh quang. Vậy vì sao ngài nhìn thái tử mà có vẻ ưu sầu, giọt lệ chứa
chan, thực trẫm chưa hiểu được.”
Tiên nhân A-tư-đà tâu rằng:
“Muôn tâu bệ hạ! Không có điều gì lo ngại cho thái tử cả. Người sẽ thành tựu
muôn ngàn công nghiệp vinh quang. Điều tôi ưu sầu là vì buồn cho thân phậnbất hạnh của tôi. Nay được thấy thái tử ra đời, biết rằng ngài sẽ diệt trừ nạn khổ
cho hết thảy chúng sanh, song lại đã đến lúc tôi phải lìa bỏ cõi đời, không được
nghe những lời vàng ngọc của ngài thuyết giảng.
“Rồi đây ngài sẽ không màng đến phú quý vinh hoa nơi chốn hoàng thành, ngài
sẽ lên đường đi tìm chân lý. Tinh thần ngài sẽ tỏa sáng chói lọi trên trần thế, làm
cho tan hết những điều mờ tối, lầm lạc. Ngài sẽ cứu vớt muôn người, vượt qua
chốn sông mê bể khổ mà độ cho biết bao kẻ nổi chìm!
“Những kẻ nào hãy còn u ám, ngài lại dạy cho biết thương yêu, sống tốt đẹp ở
đời, rồi ngài chỉ cho con đường ngay thẳng, khỏi sự lầm lạc. Còn những kẻ bị
ngọn lửa lòng sân hận đốt mãi, ngài sẽ dùng một cụm mây từ ái mát lành mà làm
cho nguội lạnh hẳn đi. Gặp những kẻ bị nô lệ cho lòng tham dục, ngày ngày kêu
vắn than dài, ngài sẽ ra tay dùng trí tuệ phá bỏ xích xiềng tham dục, mà cứu vớt
những kẻ ấy, dẫn dắt cho đến chỗ thanh thản, tự do.
“Vậy xin bệ hạ chớ lo ngại về thái tử. Chính kẻ không có diễm phúc mà nghe lời
diệu lý của thái tử mới là đáng thương hại, vì vậy nên tôi sầu tủi, khóc than. Tôi
đây đã dày công chịu khổ hạnh, đã bao năm tham thiền nhập định, thế mà chẳng
được nghe lời quý báu và đạo lý của ngài. Ôi, dầu cho lên cõi trời cao, làm bậc
tiên trưởng mà chẳng được nghe lời ngài giảng thuyết, thật cũng là đáng tiếc lắm
thay!”5. THÁI TỬ NGỰ VÀO ĐỀN THỜ THẦNVua Tịnh-phạn nghe lời tiên A-tư-đà rồi, thì lấy làm vui mừng cho vận mệnh
thái tử về sau. Nhưng rồi liền đó, lòng vị kỷ thông thường của kẻ phàm tục lại
nổi lên, khiến ngài phải lo lắng và suy nghĩ rằng: “Con ta về sau sẽ không màng
những sự vui sướng trong hoàng thành, bỏ dinh thự lầu đài mà đi tu luyện ở chốn
núi non tìm đạo giải thoát. Thế thì ta sẽ không có ai kế vị. Dòng họ ta phải dứt
tuyệt đi chăng?”
Từ đó về sau, mặc cho bao nhiêu điều tốt đẹp, an lành luôn hiện đến từ sau ngày
đản sanh của thái tử, nhưng lòng vua cứ canh cánh một mối lo. Ngài chỉ muốn
làm sao cho thái tử đừng bao giờ có ý định rời bỏ cung vàng điện ngọc.
Từ khi thái tử ra đời, đất nước trở nên hưng vượng vô cùng. Ruộng đất phì
nhiêu, đồng cỏ tươi xanh, kẻ cuốc người cày, kẻ cấy trồng, người dệt vải, kẻ giữ
chiên, người dắt bò, thảy thảy đều được những điều tốt lành, thuận lợi. Kho vua
càng đầy, thóc lúa càng nhiều, voi ngựa càng đông , quân binh càng hùng mạnh.
Trong xứ, hàng phụ nữ sanh sản êm ái, mau mắn. Người người chẳng còn tranh
giành, sân hận với nhau. Ai nấy đều trở nên từ hòa và hoan lạc, thanh thản.
Hoàng hậu có lẽ là người hạnh phúc hơn hết. Tuy nhiên, chỉ qua bảy ngày sau,
phần số của bà nơi thế giới này không còn nữa, bà liền mạng chung và sanh lên
cảnh trời Đao-lợi.[7]
Bà có một người em gái tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề[8] cũng đoan trang, đức hạnh
như bà. Sau khi bà mất, người dì này thương thái tử như con ruột của mình, lo
lắng, trông nom cho ngài từng miếng ăn, giấc ngủ đều chu đáo.
Thái tử sống giữa nhung gấm lụa là, không thiếu một thức gì quý hiếm trong
thiên hạ. Y phục toàn là gấm nhiễu, ngọc ngà, lại thêm những đồ trang sức đầy
những vòng vàng, chuỗi ngọc. Thế nhưng, đeo vào mình thái tử, các thứ y phục,
trang sức đều trở nên mờ nhạt, kém vẻ tốt tươi, bởi vì vẻ đẹp tự thân huy hoàng
rực rỡ của ngài như lấn át đi hết thảy những gì mà người đời cho là quý đẹp
nhất.
Một hôm, vua muốn đưa thái tử vào viếng đền thờ chư thần. Quân hậu vệ theo
hầu rần rộ, chật đường. Kiệu hoa lộng lẫy rước ngài đi qua các dãy phố. Ngoài
đường, người ta đặt bàn thờ, đốt trầm hương và rảy hoa thơm, treo cờ xí để chúc
mừng. Khi đoàn kiệu đến trước đền, vua nắm tay dắt thái tử vào.Thái tử vừa bước vào đền thờ thì những đấng thần linh nơi đây như thần Civa,
thần Skanda, thần Vishnou, thần Kouvéra, thần Indra, thần Brabmā,[9] đều đồng
loạt đứng dậy nghênh tiếp và quỳ lạy trước ngài. Ngay khi ấy, trên không trung
có tiếng chư thần vang lên ca ngợi rằng:
“Núi Tu-di đâu có hạ mình trước hòn đá cỏn con! Biển cả đâu có hạ mình trước
hạt mưa nhỏ bé! Vầng thái dương đâu có hạ mình trước con đóm nhỏ lu mờ.
Cũng như vậy, Đấng khai mở chánh đạo đâu có hạ mình trước các thần linh!
Chúng tôi đây chỉ như hòn đá cỏn con, như hạt mưa nhỏ bé, như con đóm nhỏ lu
mờ. Còn ngài như núi Tu-di, như biển cả, như vầng thái dương, vì ngài sẽ được
sự thông thái cao thượng hơn hết. Trần thế hãy thờ kính, phụng sự ngài, trần thế
sẽ được giải thoát vậy.”6. THAM THIỀN LẦN ĐẦUNăm thái tử lên 8 tuổi , vua Tịnh-phạn quyết định cho ngài tham gia buổi lễ Hạ
điền [10] lần đầu tiên.
Theo phong tục Ấn Độ thời bấy giờ, cứ mỗi đầu vụ mùa, người ta tổ chức một
buổi lễ rất trang trọng để cầu khấn các vị thần linh cùng trời đất ban cho sự tươi
tốt, bội thu. Lễ này có ý nghĩa quan trọng đối với toàn dân, vì xã hội bấy giờ
sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tại nơi cử hành lễ chính, nhà vua đích thân
đứng ra chủ trì, khấn vái cùng trời đất, rồi tự mình bước xuống ruộng mà đặt
lưỡi cày cho đường cày đầu tiên của vụ mùa.
Sáng hôm đó, thái tử ngồi cùng một chiếc kiệu với nhà vua đi đến tham gia buổi
lễ Hạ điền đầu tiên trong đời mình.
Tại nơi cử hành buổi lễ, người ta đã chuẩn bị trang hoàng rất uy nghiêm và rực
rỡ, vì nhà vua cũng muốn nhân chuyến đi này làm vui lòng thái tử, khiến cho
ngài càng thêm ham thích đời sống vương giả.
Vì thế, các vị quan phụ trách đã được lệnh phải tổ chức thật linh đình, vui nhộn,
hơn hẳn các cuộc lễ những năm trước.
Ngờ đâu, thái tử chẳng hề quan tâm đến những gì mà người ta đã dày công
chuẩn bị. Những đèn hoa trang trí cùng cờ phướn rực rỡ, âm nhạc rền vang với
các điệu múa tinh xảo lạ lùng... thảy đều không làm ngài để tâm gì đến.
Trong khi mọi người bước vào cuộc lễ, đức vua thân hành cùng các thầy bà-lamôn đọc kinh cầu nguyện và thực hiện các nghi thức cúng tế, thì thái tử lẳng
lặng rời xa nơi lễ hội, tung tăng chạy nhảy nô đùa trên cánh đồng rộng gần nơi
đó.
Lần đầu tiên rời khỏi hoàng cung, chính cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp nơi đồng
quê thôn dã lại làm ngài thấy vui thích thực sự. Dưới ánh nắng ban mai, cây cỏ
xanh tươi như đều vươn lên tỏa sáng, và nghe tiếng chim ca hót rộn ràng trên
những cành cao, ngài cảm nhận được sự hài hòa hơn cả những nhạc công của
chốn cung đình.
Dần trưa, ánh nắng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Thái tử đến ngồi dưới một
gốc cây cao mà nhìn ra quang cảnh đồng ruộng, xa xa đang diễn ra cuộc lễ linh
đình.Sau các nghi lễ thật long trọng, vua Tịnh-phạn đích thân bước xuống ruộng đặt
lưỡi cày cho đường cày đầu tiên. Sau đó, các lực điền bắt đầu công việc của họ.
Từng cặp trâu bò to khỏe được đưa xuống ruộng để đua nhau cày đất. Người ta
nô nức với không khí vừa là lễ hội, vừa là khởi đầu của một vụ mùa đầy hy
vọng.
Khi các nông phu dần thấm mệt, những tấm lưng trần của họ loang loáng mồ hôi
dưới ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Những con trâu cũng không còn lanh lẹ
như lúc đầu, chúng chậm bước dần đi vì mỏi mệt và vì trời trưa nắng gắt. Nông
phu bắt đầu vung cao những lằn roi hung dữ và la hét để thúc đẩy chúng cất
bước kéo cày.
Trên đồng ruộng, khi những lưỡi cày vỡ đất được kéo qua, các loại côn trùng bị
một phen xáo động. Những con giun đất bị hất tung lên, đứt làm nhiều đoạn,
quằn quại trên đất. Cào cào, châu chấu và nhiều loại côn trùng khác hốt hoảng
bay ra tứ tán. Khi ấy, nhiều loài chim lớn nhỏ khác nhau đều chực sẵn trên
những cành cây ven ruộng. Rồi chúng bay vụt xuống, đớp lấy những con mồi bé
nhỏ thảm thương không nơi ẩn náu...
Trong khi tất cả những cảnh ấy diễn ra thật bình thường và tự nhiên đến mức
chẳng làm ai quan tâm đến, thì vị thái tử tám tuổi đầu kia lại chẳng thể nào xao
lãng nổi. Ngài ngồi yên lặng dưới bóng cây, nhìn tất cả quang cảnh với một sự
thương cảm dâng tràn.
Ngài thấy thương xót cho những nông phu đang phơi lưng trần dưới nắng, trong
khi quan lại và những người trong hoàng tộc chè chén say sưa có tàn che lọng
phủ. Cuộc sống của họ nhọc nhằn vất vả chỉ để vừa đổi lấy chén cơm manh áo,
thật đáng thương biết bao.
Ngài lại thấy thương xót cho sinh mạng của những côn trùng bé bỏng, như bất
lực trước cuộc cạnh tranh khốc liệt để sinh tồn.
Ngài trầm ngâm suy nghĩ và chợt nhận ra một quy luật khắc nghiệt trong sự tồn
tại của muôn loài. Những người nắm giữ sức mạnh sẽ đè bẹp những kẻ thấp hèn
để giành lấy đời ấm no sung sướng; cũng như những loài mạnh mẽ hơn sẽ cướp
đi mạng sống của những loài nhỏ bé khác để nuôi dưỡng cuộc sống của chính
mình.
Và dòng suy tư của thái tử tiếp tục với những điều chiêm nghiệm sâu xa hơn nữa
về cuộc sống và ý nghĩa của nó. Ngài lấy làm băn khoăn trước cảnh tranh sốnggiữa muôn loài và tự hỏi có lẽ nào con người sinh ra rồi chết đi chỉ để trải qua
một cuộc tranh giành như thế?
Một hồi lâu, ngài chuyển sang tư thế ngồi kết già dưới bóng cây và tập trung tư
tưởng hoàn toàn vào những suy tư chiêm nghiệm của mình. Ngài đã nhập định
lần đầu tiên trong đời mình ngay dưới bóng cây này, báo trước một tương lai
chuyển hóa tươi đẹp cho nhân loại và cho cả muôn loài.
Buổi sáng dần qua đi, rồi buổi trưa, và giờ đây mặt trời đã chếch nhiều về
phương tây, nhưng lạ thay, bóng cây che mát chỗ ngài ngồi tham thiền vẫn còn
nguyên đó, không chuyển dời đi theo sự dịch chuyển của mặt trời.
Đức vua Tịnh-phạn không biết thái tử đi đâu, bèn sai người đi tìm khắp nơi. Mọi
người tìm đến, thấy ngài đang trong cơn thiền định, với vẻ mặt thanh thoát hiền
từ. Tất cả đều yên lặng đứng nhìn và lấy làm kinh ngạc khi thấy trời đã xế rồi mà
cái bóng che cho thái tử hãy còn nguyên nơi vị trí của buổi sáng.
Có người liền trở về báo tin cho vua hay. Vua lập tức ngự ra tận nơi, rồi yên lặng
đứng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thái tử khi ngài ngồi nhập định. Ngài bảo tùy
tùng rằng:
“Thái tử ngồi đây, đẹp đẽ và uy nghi như một đỉnh núi. Vẻ mặt từ hòa và sáng
suốt này báo trước việc thái tử sẽ trở nên ánh đuốc sáng trong đời. Trẫm rất
mừng khi thấy thái tử nhập định, và cũng rất lo lắng mà biết rằng lời dự báo của
tiên A-tư-đà hẳn là không sai. Một ngày không xa có lẽ thái tử sẽ không còn ở
mãi nơi hoàng cung này cùng trẫm nữa.”7. VIỆC HỌC CỦA THÁI TỬKhi thái tử lớn lên , vua cho ngài học chung các vị công tử trong giòng họ
Thích-ca , do thầy bà-la-môn thông thái nhất lúc bấy giờ là Tỳ-xa-bà-mật-đa-la
[11] chủ trì việc dạy dỗ, cùng với nhiều vị bà-la-môn thông thái khác nữa để dạy
cho ngài đủ các môn học.
Thái tử cực kỳ thông minh. Ngài học ít hiểu nhiều, tiếp thu nhanh chóng những
kiến thức từ các vị thầy dạy mà không cần họ phải nhọc công giảng giải nhiều.
Ngài lại còn thường xuyên đặt ra rất nhiều câu hỏi sâu sắc bất ngờ, khiến cho các
vị giáo sư đều phải lúng túng.
Thái tử tinh thông toàn diện các môn học. Ngài được học cả những môn như âm
nhạc, hội họa, văn học, triết học..., là những môn giúp phát triển tâm hồn thanh
cao. Đồng thời, ngài cũng học hết thảy các môn võ nghệ, binh pháp như cưỡi
ngựa, bắn cung, múa kiếm... Với các môn này, ngài cũng luôn luôn tỏ ra xuất sắc
nhất trong những người cùng học.
Vào thời bấy giờ thì thánh kinh Vệ-đà[12] của đạo Bà-la-môn, với bộ sách triết
học Áo nghĩa thư[13] được xem là những tinh hoa triết lý cao tột nhất. Kinh Vệ-
đà có cả thảy 4 bộ, mà Áo nghĩa thư là bộ cao trổi hơn hết. Thái tử nhanh chóng
tiếp thu trọn vẹn hết thảy những điều thâm áo nhất trong những bộ sách này, nhờ
các vị danh sư hết lòng chỉ dạy. Cho đến khi các vị không còn gì để giảng giải,
thái tử bắt đầu chất vấn các vị hàng loạt vấn đề về cuộc sống, về nhân sinh cũng
như nhiều vấn đề triết học siêu hình khác. Không ai trong các vị bà-la-môn
thông thái có thể đưa ra những lời giải đáp làm ngài thỏa mãn. Học vấn của ngài
như vượt lên trên tất cả những vị thông thái nhất của thời bấy giờ.8. LÒNG NHÂN ÁI CỦA THÁI TỬThái tử Sĩ-đạt-ta rất thích được gần gũi với những cảnh thiên nhiên thoáng mát,
rộng rãi. Vì thế, trong những lúc rãnh rỗi ngoài giờ học ngài thường dạo chơi
trong vườn hoa phía sau. Khu vườn rộng này của hoàng cung có nuôi nhiều loại
thú để tạo ra khung cảnh thiên nhiên hoang dã. Khi thái tử một mình lẳng lặng ra
đây dạo chơi, vẻ từ hòa, nhân ái của ngài làm cho các loài thú đều cảm thấy thân
thiện nên hay đến gần để được ngài vuốt ve trìu mến.
Một hôm, thái tử đang dạo chơi trong khu vườn như thường lệ thì bỗng thấy một
con chim từ trên trời rơi xuống. Chim bị trúng một mũi tên, máu chảy ướt cả
cánh. Nhìn con chim giãy giụa đau đớn trên mặt đất, thái tử vô cùng xúc động,
thương xót. Ngài chạy vội đến, bế chim lên, rút mũi tên ra và xé một mảnh vải
áo đắp chặt vào vết thương cho máu ngừng chảy.
Rồi ngài vội vã mang chim về cung, sai thị nữ chạy tìm thuốc đắp lên vết thương
và săn sóc cho chim. Ngay khi ấy thì có chàng Đề-bà-đạt-đa[14] tìm đến, tay vẫn
còn cầm một cây cung. Chính Đề-bà-đạt-đa đã bắn mũi tên trúng con chim, vì
thế anh ta đang đi tìm chỗ chim rơi để nhặt thì gặp thái tử.
Đề-bà-đạt-đa khăng khăng đòi lại con chim, nhưng thái tử cương quyết không
giao cho anh ta. Lòng nhân ái đã khiến ngài trở nên kiên quyết lạ thường. Ngài
biết rằng con vật bé nhỏ ấy đang cần sự che chở của ngài để được toàn mạng
sống.
Không lấy được con chim, Đề-bà-đạt-đa không chịu bỏ cuộc. Chàng đi tìm các
vị lão thần trong triều để nhờ phân xử. Thật là một vụ tranh cãi rất khó xử, vì cả
hai chàng đều là con cưng trong hoàng tộc. Sau khi xin ý kiến của vua Tịnhphạn, các vị liền cho mời cả hai người đến, tuyên bố rằng:
“Bây giờ chúng tôi sẽ lắng nghe cả hai người công khai tranh cãi. Nếu ai đưa ra
được những lý lẽ xác đáng và có tính thuyết phục hơn thì con chim thuộc về
người đó.”
Vốn tính nóng nảy, Đề-bà-đạt-đa không nhịn được liền bước ra xin nói trước.
Anh ta nói:
“Chim bay trên trời, cá lội dưới nước, vốn dĩ không thuộc về ai cả. Nay chính tôi
bắn rơi được con chim, thái tử cũng công nhận điều đó. Như vậy nó phải thuộc
về tôi, có lý nào lại thuộc về người khác?”Các vị lão thần đều lặng thinh trước lập luận đó. Đề-bà-đạt-đa rất hả dạ, cho rằng
chuyến này thái tử hẳn phải một phen bẻ mặt, vì chắc chắn phải giao con chim
cho mình rồi.
Khi ấy, thái tử điềm đạm bước ra nói:
“Hết thảy muôn loài đều tham sống mà sợ chết. Mạng sống của bất cứ ai cũng
đều là quý giá, không nên đoạt mất. Quả đúng là Đề-bà-đạt-đa đã bắn rơi con
chim này. Trước đó, nó tự do bay lại trên bầu trời cao rộng với đôi cánh của
mình. Nay vì một mũi tên của Đề-bà-đạt-đa mà nó phải mang thương tích suýt
mất mạng, hiện vẫn còn cần đến sự chăm sóc thuốc thang. Như vậy, Đề-bà-đạt-
đa rõ ràng là kẻ thù của chim. Còn tôi, gặp chim trong tình trạng nguy khốn nên
cứu lấy mạng sống, nhờ người chăm sóc cho nó. Như vậy, tôi chính là ân nhân
của chim. Xin hỏi các vị, nếu phải giao phó những bệnh nhân đang cần chăm sóc
thuốc thang, thì các vị sẽ giao cho kẻ thù của họ hay giao cho ân nhân của họ?”
Các vị lão thần đồng thanh đáp:
“Tất nhiên là không thể giao cho kẻ thù được.”
Đề-bà-đạt-đa giận đến tái mặt, nhưng không còn lời nào để nói trước lập luận
chặt chẽ của thái tử, liền lặng lẽ bỏ đi.
Các vị lão thần thảy đều khâm phục tài biện luận của thái tử, và càng khâm phục
hơn nữa trước tấm lòng nhân ái bao la, thương người, thương vật của ngài.9. TÀI NĂNG CỦA THÁI TỬToàn cõi Ấn Độ thời bấy giờ phân tán làm nhiều nước, luôn tranh chấp, giành
giật biên giới của nhau, ít khi được yên ổn. Đất nước mà vua Tịnh-phạn đang trị
vì chỉ là một vương quốc nhỏ, so với 16 cường quốc khác đương thời, và nhiều
nước nhỏ khác nữa cũng luôn sẵn sàng gây hấn, lấn chiếm đất đai.
Chính vì vậy, các vị vương tôn công tử luôn luôn phải được chú ý đào luyện các
môn võ thuật, quân sự. Ngoài việc học tập và rèn luyện, thỉnh thoảng nhà vua
còn tổ chức những cuộc tranh tài để kích thích tinh thần học tập của mọi người,
đồng thời cũng để chọn ra người tài giỏi mà dùng khi hữu sự.
Khi thái tử đã học xong các môn võ nghệ, vua Tịnh-phạn quyết định tổ chức một
cuộc tranh tài để cho thái tử thi thố tài năng, vì ngài rất hài lòng khi nghe các vị
giáo sư báo cáo về năng lực học tập của thái tử.
Cuộc tranh tài được tổ chức hết sức long trọng. Phần thưởng cho người vô địch
lần này là một con voi trận màu trắng rất quý giá. Tham gia tranh tài có tất cả
các vị vương tôn, công tử cũng như các bậc anh tài tuấn kiệt đương thời. Ai ai
cũng náo nức muốn được một lần thi thố tài năng trước công chúng.
Vận động trường được xây dựng trên một quãng đất trống rộng mênh mông, đủ
chỗ cho tất cả các môn thi như chạy bộ, đua ngựa, bắn cung, và nhiều môn khác
nữa. Nhưng đặc biệt nhất là môn cưỡi ngựa vượt chướng ngại vật, vì con ngựa
mà tất cả các thí sinh buộc phải sử dụng là một con ngựa chứng rất khó cưỡi.
Vì cuộc tranh tài lần này có sự tham gia của thái tử Sĩ-đạt-ta, nên vua Tịnh-phạn
đã đích thân đến dự. Ngài muốn tận mắt chứng kiến tài năng của đứa con trai
yêu quý của mình.
Qua hầu hết các môn thi, thái tử dễ dàng dẫn trước tất cả những người khác,
thậm chí bỏ rất xa, chẳng ai theo kịp. Cuối cùng, còn lại hai môn gay cấn nhất là
bắn cung và cưỡi ngựa.
Trong môn bắn cung, sau khi tất cả các thí sinh đều đã ra đấu trường thi thố tài
năng, thái tử mới là người ra thi sau cùng. Mọi người đều hồi họp chờ đợi xem
thái tử có vượt qua được thành tích của những người đi trước hay không.
Thật bất ngờ, không ai trông thấy được mũi tên bay ra về đích cả, vì cây cung đã
gãy đôi ngay khi cánh tay rắn chắc của thái tử vừa giương lên. Ban tổ chức hốihả đổi ngay ra một cây cung khác, nhưng lần này cũng chẳng khá gì hơn. Với
sức mạnh phi thường của mình, thái tử liên tục làm gãy hết một loạt những cây
cung mà ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn nơi đấu trường. Mọi người đều bối rối
trước tình huống không ai có thể lượng trước này.
Trên đài cao, vua Tịnh-phạn đã chứng kiến hết mọi việc. Ngài lập tức ra lệnh
cho các lực sĩ đến ngay đền thờ cạnh thế miếu mang cây cung thần bằng đồng
của dòng họ Thích-ca đến. Cây cung này được đúc ra từ nhiều đời trước, vẫn để
thờ trong đền vì thực tế chưa thấy ai đủ sức mạnh để giương cung lên. Chỉ riêng
việc mang cung đến đấu trường đã phải cần đến 8 người lực sĩ.
Khi cây cung được khiêng đến, vua Tịnh-phạn bắt đầu thấy lo ngại vì chính ngài
cũng không thể tin được là thái tử sẽ giương nổi cây cung khổng lồ này, nói gì
đến việc bắn chính xác để đoạt giải.
Thế nhưng, với thần sắc thật ung dung, thái tử thản nhiên bước đến bên cạnh cây
cung và cúi người nhấc cung lên. Ngài lắp mũi tên thép vào cung một cách chậm
rãi, thong thả, như người ta đang làm một công việc gì rất là nhàn hạ.
Mục tiêu là 7 cái trống đặt liên tiếp nhau ở vừa tầm bắn. Mũi tên phải xuyên
đúng tâm điểm của cái trống đầu tiên, và đủ mạnh để xuyên thủng cả 7 cái trống
mà vẫn còn giữ ở vị trí tâm điểm của cái trống cuối cùng. Khi đã đạt được yêu
cầu này rồi, quãng đường mà mũi tên còn tiếp tục bay sau khi xuyên qua 7 cái
trống cũng sẽ đưa vào thành một yếu tố tính điểm.
Với một dáng điệu tuyệt đẹp trên đấu trường, thái tử thong thả buông cung. Mũi
tên xuyên vút qua đúng tâm điểm cả 7 cái trống và tiếp tục bay đi thêm một
quãng xa. Vì trước đó chưa ai làm được điều này, nên ban tổ chức hầu như
không cần quan tâm đến đoạn đường xa phía sau những cái trống. Thái tử đương
nhiên đoạt giải quán quân môn này.
Tiếp đó là môn cưỡi ngựa vượt chướng ngại vật. Với các tay cự phách tham gia
cuộc thi này thì những chướng ngại đã dựng ra trên đường để họ vượt qua dường
như không có gì khó khăn lắm. Nhưng điều khắc nghiệt trong cuộc thi là họ
không được chọn con ngựa nào khác ngoài con ngựa chứng cực kỳ hung hãn mà
ban tổ chức đã mang đến.
Nhiều thí sinh lần lượt ra thi đấu. Thậm chí không ai ngồi được lên lưng ngựa.
Nó đã lồng lên và hất tung họ xuống ngay khi còn chưa chạm được đến yên
ngựa. Có người ngã đau quá đến chấn thương phải được đưa đi săn sóc ngay.Đề-bà-đạt-đa là một người có sức mạnh kinh hồn và rất giỏi trong môn cưỡi
ngựa. Nhưng anh ta cũng chỉ vừa ngồi yên trên lưng ngựa chưa bao lâu thì bị
hất rơi xuống đất. Cũng may là anh chưa bị thương tích gì.
Chứng kiến cảnh nguy hiểm đó, ban tổ chức bàn thảo cùng nhau và đưa ra đề
nghị là thái tử Sĩ-đạt-ta không cần tham gia môn thi này. Họ thực sự lo lắng cho
sự an toàn của thái tử, người con một của đức vua Tịnh-phạn, người sẽ nối ngôi
trị vì vương quốc.
Tuy nhiên, thái tử vẫn thản nhiên. Ngài bảo là không cần như thế, và ngài muốn
tham gia đầy đủ các môn thi bình đẳng như bao nhiêu người khác.
Thái tử thong thả tiến bước đến bên con ngựa. Nhưng thay vì nắm lấy dây cương
như những người khác, ngài chỉ lấy tay vuốt bờm ngựa và nói với nó mấy lời êm
ái như với một người bạn chí thân. Con ngựa như hiểu được lời ngài, nó phất
đuôi nhè nhẹ qua lại mấy cái rồi thè lưỡi liếm tay ngài. Bấy giờ, thái tử mới ung
dung lên ngựa. Ngài thậm chí chưa cưỡi đi ngay mà còn quay nhìn quanh chào
tất cả mọi người. Rồi ngài cho ngựa chầm chậm bước đi mấy bước, trước sự hồi
họp của tất cả khán giả đến xem. Con ngựa bỗng trở nên ngoan ngoãn lạ thường,
không còn một chút dáng vẻ hung hăng nào trước đó.
Khi thái tử bắt đầu cho ngựa phóng nhanh, con ngựa như hừng chí muốn bộc lộ
hết tài năng của nó. Ngựa vượt qua các chướng ngại vật một cách hết sức dễ
dàng và phóng nhanh vùn vụt đến chóng mặt. Tuy nhiên, thái tử ngồi trên ngựa
thấy êm ái như nó đang đi từng bước nhẹ.
Thái tử vượt qua hết đoạn đường quy định và quay ngựa trở lại đến trước lễ đài
trong tiếng hoan hô vang dậy của công chúng.
Ngài đoạt chức vô địch toàn diện trong cuộc thi tài này.
Sau đó, thái tử cưỡi con voi trắng quý giá là phần thưởng dành cho người thắng
cuộc, đi dạo khắp các phố phường trong kinh thành.
Dân chúng đổ xô ra xem mặt vị thái tử tài ba và cũng là vị vua tương lai của họ.
Sau lần dự cuộc tranh tài ấy, danh tiếng về tài năng của thái tử vang dội khắp
mọi nơi trong nước, ngoài nước.10. THÁI TỬ CƯỚI VỢVua Tịnh-phạn vẫn nhớ mãi những lời dự đoán của tiên nhân A-tư-đà khi thái tử
mới ra đời. Nhưng lòng vua không nỡ tin rằng rồi đây thái tử sẽ bỏ cung vàng
điện ngọc mà ra đi.
Vua bèn suy nghĩ tìm mọi cách để ràng buộc, níu kéo thái tử ở lại với cuộc sống
hoàng cung. Ngày kia, vua quyết định sẽ cưới vợ cho thái tử, cho rằng đó là một
cách hữu hiệu để trói buộc ngài. Vua triệu thái tử vào và dạy rằng:
“Nay con đã lớn tuổi, phải lo liệu việc lập gia đình. Nếu con vừa ý nơi nào, cha
sẽ định liệu cho.”
Thái tử tâu rằng:
“Việc ấy con xin tùy quyền quyết định của phụ vương.”
Vua Tịnh-phạn liền truyền cho các quan gấp rút tiến hành việc chọn vợ cho thái
tử.
Tin mừng loan ra, khắp nơi trong nước nhân dân đều náo nức. Theo tục lệ bấy
giờ, người được thái tử chọn làm vợ có thể thuộc vào một trong ba giai cấp. Đó
là giai cấp bà-la-môn, giai cấp sát-đế-lỵ, tức là dòng vua chúa, và giai cấp trưởng
giả. Tuy nhiên, những công chúa các nước láng giềng hẳn là những người nuôi
nhiều hy vọng hơn cả.
Với tài ba và trí tuệ của thái tử vốn đã nổi tiếng khắp nơi vào lúc đó, nên các vị
công nương đài các nghe tin thái tử sắp chọn vợ thì từ khắp bốn phương đều đổ
về đông vô kể. Ai ai cũng hy vọng được lọt vào tầm mắt của vị thấi tử tài ba, anh
tuấn, vị vua tương lai của dòng Thích-ca.
Ngày chọn vị hoa khôi làm vợ thái tử rồi cũng đến. Người ta treo đèn kết hoa ở
khắp mọi nơi trong kinh thành. Người ta tổ chức nhiều cuộc vui để chào mừng
ngày trọng đại này. Và quan trọng hơn hết, người ta xây dựng một quãng trường
rộng lớn và đẹp đẽ, lộng lẫy, huy hoàng, là nơi thái tử sẽ đích thân đến chọn
người bạn trăm năm của mình.
Giữa quảng trường là một lễ đài cao rộng. Trên đó, thái tử ngồi sau một cái bàn
rộng và dài, trên chất đầy những đồ châu báu quý giá đủ loại. Tất cả các vị công
nương, công chúa đến dự buổi thi tuyển này đều đã chuẩn bị những bộ y phụclộng lẫy nhất, xinh đẹp nhất, cùng với những đồ trang sức đẹp nhất của họ. Từng
người một từ từ tiến lên lễ đài, thướt tha lướt nhẹ chầm chậm đến chỗ thái tử, và
dừng lại ngay trước mặt ngài để nhận lấy một món quà tặng do ngài trao tặng.
Thái tử ngồi đó quan sát từng người, và rồi tự tay ngài chọn lấy một trong các
món đồ châu báu trên bàn, mà ngài cho là thích hợp với người đó để trao tặng.
Tất nhiên là những người đẹp hơn sẽ nhận được những món quà giá trị hơn.
Khi đến lượt nàng công chúa tên Da-du-đà-la[15] tiến lên lễ đài và đến chỗ thái
tử, thì ngài bỗng bối rối mà nhận ra trên bàn không còn một món báu vật nào
nữa cả. Cũng đồng thời ngay trong lúc ấy, ngài nhận ra vẻ đẹp duyên dáng, kín
đáo của Da-du-đà-la mà không một vị công nương, công chúa nào trước đó có
thể sánh bằng.
Trong khi thái tử còn chưa hết cơn ngẩn ngơ và bối rối, thì công chúa đã dịu
dàng bước đến bên và lên tiếng hỏi ngài: “Thưa thái tử, ngài có gì để tặng cho
em chăng?”
Thái tử bỗng nảy ra một ý, ngài bảo: “Xin công chúa hãy bước lại gần đây hơn
nữa.”
Khi công chúa Da-du-đà-la bước đến đứng sát cạnh bên ngài, thái tử liền cởi xâu
chuỗi ngọc đang đeo trong mình ra và tự tay đeo vào cổ cho nàng.
Cả đại hội cùng vỗ tay hoan hô vang dội. Người người đều hiểu ra là thái tử đã
ngầm công bố sự chọn lựa của mình. Cuộc thi tuyển chấm dứt trong không khí
tưng bừng vui vẻ và vua Tịnh-phạn tuyên bố việc chuẩn bị tiến hành hôn lễ trong
mùa thu sắp tới.
Năm ấy, thái tử tròn hai mươi bốn tuổi.11. NHỮNG KHOÁI LẠC CHỐN KINH THÀNHSau khi thái tử cưới vợ, vua Tịnh-phạn lấy làm vui mừng lắm. Ngài cũng hài
lòng về công chúa Da-du-đà-la , một trang quốc sắc thiên hương, tính nết lại
thùy mỵ, đoan trang, hiền từ rất mực. Nhà vua cho rằng với một người vợ như
thế thì thái tử hẳn không bao giờ còn có thể nảy ra ý nghĩ từ bỏ kinh thành được
nữa.
Mặc dù vậy, nhà vua vẫn chưa hết lo âu. Ngài còn muốn tạo thêm những mối
dây thắt buộc chắc chắn hơn thế nữa, để đảm bảo là thái tử vĩnh viễn không bao
giờ lìa bỏ cung vàng điện ngọc. Với sự góp ý của nhiều vị bà-la-môn thông thái,
nhà vua quyết định rằng phải tìm mọi cách làm cho thái tử luôn luôn đắm chìm
trong những cuộc vui, tận hưởng những khoái lạc có thể có được nơi trần thế, để
thái tử không có bất cứ thời gian nào mà nghĩ đến việc ra đi.
Vua truyền cho các nhạc công, vũ nữ ngày đêm tổ chức những cuộc vui trong
cung. Vua lại xây cất cho thái tử ba khu biệt thự ở ba nơi khác nhau: một ở nơi
khí hậu ấm áp để cho thái tử nghỉ lúc mùa Đông, một trên đồi cao mát mẻ, cây
cối xanh tốt, để cho thái tử tránh nắng mùa Hạ, và cái thứ ba thì xây dựng phù
hợp để thái tử ở trong mùa mưa. Thái tử và vợ thường xuyên chuyển đến ở một
trong ba nơi ấy, lúc nào cũng cảm thấy khí hậu quanh mình mát mẻ, dễ chịu.
Vua còn sai người mang đến đủ các thứ cao lương mỹ vị, gấm vóc lụa là từ khắp
nơi trong nước, để cho thái tử tùy ý chọn dùng. Vua cũng mật truyền cho những
người hầu cận quanh thái tử, phải luôn luôn tìm những cuộc vui mà giải trí cho
thái tử, không lúc nào được để thái tử sinh ra buồn chán.
Mặc dù hài lòng với tất cả những điều khoái lạc mà mình đã tạo ra nhằm buộc
chân thái tử, nhưng vua vẫn chưa yên tâm. Để vững lòng hơn nữa, ngài bèn ra
lệnh nghiêm cấm không cho thái tử ra khỏi hoàng thành mà dạo chơi những
chốn bên ngoài.
Tuy nhiên, vì khu biệt thự mùa Hạ được xây dựng xa chốn hoàng thành, nên vua
cũng không thể hoàn toàn giữ chân thái tử được. Năm đầu tiên đến nghỉ ở khu
biệt thự này trong vòng bốn tháng, nhiều chuyển biến quan trọng đã diễn ra
trong tâm hồn thái tử.
Công chúa Da-du-đà-la rất hợp ý với chồng. Cả hai người đều chuộng cách sống
giản dị, hòa đồng và đều có lòng thương người sâu đậm.Trong kỳ nghỉ ấy, không hẹn trước mà cả hai đều có đồng một sở thích là lang
thang ra các vùng nông thôn phụ cận để tiếp xúc và tìm hiểu cuộc sống dân dã.
Được thoát ra khỏi đời sống bó buộc, nặng nề của hoàng thành, sống giản dị hòa
nhập với thiên nhiên bao la tươi đẹp, cả thái tử và công chúa đều thấy rất hài
lòng và sảng khoái.
Cũng trong dịp này, họ lần đầu tiên hiểu ra cuộc sống nhọc nhằn, lam lũ của
những người dân quê nghèo khó. Với những của cải được nhà vua hào phóng
chu cấp cho, họ mang ra giúp đỡ cho dân nghèo quanh vùng.
Nhưng rồi cuối cùng, thái tử lấy làm buồn bã mà nhận ra rằng, việc cứu giúp dân
nghèo bằng cách đó thật không đáng kể vào đâu so với những mảnh đời bất hạnh
hầu như lan tràn khắp chốn. Ngài ngậm ngùi, ưu tư mà suy nghĩ về một giải
pháp nào đó khác hơn, để có thể cứu khổ cho hết thảy mọi người. Và từ đó ngài
hiểu ra sự thật giả dối về những cuộc vui xa xỉ, những khoái lạc mà vua cha ban
cho ngài ở chốn hoàng cung.12. BA LẦN GẶP KHỔMột hôm, vào dịp đầu xuân, có người đến tâu với thái tử rằng: “Cảnh trời hôm
nay tươi sáng, bên ngoài có cỏ đẹp hoa thơm, có chim hót trên cành, lại có
những cảnh vườn xanh, ruộng tốt. Người và vật đâu đâu cũng đều có vẻ tươi
cười chào đón cảnh xuân. Ngài nên dạo chơi đôi chút cho thanh thản, bởi lâu
ngày ở mãi trong cung thì có khác nào như ngựa kia bị nhốt mãi trong tàu.”
Thái tử nghe vậy lấy làm hợp ý. Ngài liền tâu lên vua cha xin được đi xem
phong cảnh ngoài thành. Vua không biết làm sao ngăn cản, đành thuận cho thái
tử dạo chơi.
Nhưng vua nghĩ rằng: “Nếu để thái tử thấy những thảm trạng ngoài đường, ắt sẽ
có lòng xúc động. Ta muốn cho thái tử không thấy những sự buồn, vậy nên
truyền cho những dân đau khổ, những kẻ nghèo khó tật bệnh đều phải tránh ra
xa.”
Nghĩ rồi liền làm y như vậy, bí mật truyền cho những nơi thái tử sẽ đi qua, quan
quân phải đến trước mà dẹp đường, không để cho thái tử nhìn thấy bất cứ cảnh
đau lòng nào.
Thái tử ra thành dạo chơi trên một chiếc xe ngựa với người đánh xe trung thành,
tin cẩn là Xa-nặc.[16] Khắp nơi ngài đi qua đều thấy những đèn hoa giăng kết
chào mừng, những người trên đường đều là những trai tráng mạnh mẽ, những
người giàu có ăn mặc sang trọng.
Nhưng rồi thái tử thấy vui với khí trời xuân ấm áp và truyền cho Xa-nặc đi xa
hơn nữa ra miền đồng quê. Ở đó, các quan binh chưa kịp đến trước mà dọn dẹp
đường xá, ngài cứ cho xe thẳng tiến trên con đường rộng chạy giữa những cánh
đồng bao la xanh tốt.
Bỗng đâu ven đường có một ông lão lưng còng, tóc bạc, tay chống gậy, chân run
rẩy, hàm răng rụng sạch, làn da nhăn nheo, xấu xí, trông không còn ra dáng hình
người. Thái tử lần đầu tiên trông thấy một người già nua xấu xí đến thế, lấy làm
lạ bèn phán hỏi Xa-nặc rằng: “Nhà ngươi có biết người khòm lưng, tóc bạc đó là
ai chăng? Vì sao thân hình người ấy lại chỉ còn da bọc xương. Ta xem người ấy
cặp mắt như hết thần, tay nương gậy, chân run rẩy không còn đi đứng vững
vàng. Sao bao nhiêu người mà ta đã gặp không có ai giống như người ấy?”
Xa-nặc tâu lên rằng: “Đó là một ông lão, người đã bị sự tàn phá của tuổi già.Với tuổi già thì bao nhiêu những sự vui sướng đều không được thụ hưởng như
xưa! Khi đã già thì hết vẻ xinh đẹp, hết sự khỏe mạnh, hết cả trí tuệ minh mẫn,
lại suy nhược, chịu nhiều bệnh khổ. Ông lão ấy hồi trẻ khi cha mẹ sanh ra cũng
từng phải bú mớm, dần dần lớn lên cũng thành người trai tráng mạnh mẽ, mà
nay tuổi già nên trở thành khô héo, bại hoại như thế.”
Thái tử lấy làm cảm xúc, hỏi tiếp rằng: “Quyền thế như ta đây, liệu có phải già
như thế không?”
Xa-nặc tâu rằng:
“Ngài rồi cũng không tránh khỏi cái già! Hết thảy muôn người không ai có thể
tránh được cái già. Cho dẫu là bậc đế vương quyền cao tột đỉnh, hoặc người dân
quê nghèo khó khổ nhọc, đối với sự già lão thì cũng đều phải chịu như nhau.”
Thái tử nghe nói, lấy làm thảng thốt, bèn thở dài và lắc đầu. Ngài nhìn lão già
một lần nữa rồi than rằng:
“Cái già làm cho hình hài xấu xí, sức khỏe suy nhược, thần trí mê muội, thân thể
đau nhức, tai điếc mắt lờ, thế mà người đời chẳng biết ghê sợ, chỉ mãi đắm say
trong những cuộc vui dục lạc. Thôi ngươi hãy quay ngựa trở về. Ta giờ chỉ ám
ảnh bởi cái già nó làm khổ muôn người, không phương tránh né, nên chẳng còn
vui thích gì mà dạo chơi nữa cả.”
Sau chuyến đi ấy, thái tử đâm ra ưu tư, suy nghĩ. Ngài hiểu ra sự thật về cái giả
tạo, tạm bợ của kiếp người, khác nào như ngọn đèn dầu, tuy sáng đó nhưng
chẳng bao lâu rồi dầu hết mà phải tắt. Ngài thường ngồi một mình ở nơi vắng vẻ
để suy nghĩ về thân phận con người với chuỗi ngày thanh xuân ngắn ngủi không
thể nào tồn tại.
Có người đem những việc đã xảy ra tâu lên vua Tịnh-phạn. Đức vua vô cùng lo
lắng, và truyền bày thêm nhiều cuộc vui hơn nữa làm cho thái tử nguôi ngoai.
Nhưng thái tử không còn quan tâm nữa. Ngược lại, ngài bắt đầu cảm thấy băn
khoăn về những sự thật khác nữa trong cuộc sống mà có lẽ vì bị giam hãm mãi
trong cung đình nên ngài không thể tìm biết được. Ngài quyết định xin phép vua
cha ra ngoài thành dạo chơi một lần nữa.
Lần này, thái tử quyết định không đi công khai như lần trước. Ngài cũng không
đi bằng xe ngựa, mà cải trang làm một người trưởng giả đi bộ ra ngoài thành
cùng với người hầu cận là Xa-nặc.Nhờ dạo chơi trong thành bằng cách này, thái tử có thể tiếp cận được với cuộc
sống thực tế của nhân dân, đặc biệt là những người dân thuộc tầng lớp thấp hèn.
Ngài rất vui mừng khi cảm nhận được nhiều niềm vui đơn sơ trong cuộc sống
giản dị, tự nhiên của những người dân nghèo, khác với cuộc sống gò bó lễ nghi
của cung đình.
Đến cuối một con đường kia, thái tử bỗng nghe có tiếng người rên la rất lớn.
Ngài vội vã lần bước đến đó và nhìn thấy một hình ảnh mà từ trước ngài chưa
thấy bao giờ.
Trên mặt đất, một người đang lăn lộn, rên xiết. Ông ta nằm dài trên mặt đất, thân
hình cứ run lên từng chặp trong khi cặp mắt trợn lên trắng dã, vẻ mặt tái mét như
không còn chút máu hồng nào trong đó. Ông có vẻ như cố gượng đứng lên nhiều
lần nhưng lần nào rồi cũng ngã nhào xuống, không sao dậy nổi.
Vốn sẵn tấm lòng nhân ái bao la, thái tử liền chạy ngay đến nâng người ấy dậy.
Ngài đặt người ngồi tựa vào mình, lấy tay xoa đầu như muốn làm giảm bớt đi sự
đau đớn.
Xa-nặc vội vã chạy đến, miệng la lớn: “Xin ngài chớ chạm vào người ấy. Đó là
một người bệnh truyền nhiễm.”
Thái tử ngạc nhiên, hỏi Xa-nặc: “Thế nào gọi là một người bệnh?”
Xa-nặc đáp: “Người ấy xưa cũng khỏe mạnh, tráng kiện như bao người khác,
nhưng một khi đã mắc bệnh rồi thì thân thể tàn tạ, đau đớn đến thế, nên gọi là
người bệnh.”
Thái tử lại hỏi: “Những người khác có khi nào bị bệnh như thế này chăng?”
Xa-nặc thưa rằng: “Nếu ai tiếp xúc với người bệnh, cũng đều có thể sẽ bị bệnh.
Nhưng cũng có những người tự dưng mắc bệnh mà tự họ không hiểu nguyên do
từ đâu. Nói chung là trong chúng ta ai ai cũng có thể bị bệnh, mà không thể biết
chắc được là sẽ bị vào lúc nào. Xin ngài hãy đặt người bệnh ấy xuống, nếu
không có thể rồi ngài cũng sẽ mắc bệnh.”
Thái tử chưa hết ngạc nhiên, ngài hỏi tiếp: “Xa-nặc! Ngoài người bệnh như thế
này, còn có những bệnh nào khác hơn nữa chăng?”
Xa-nặc đáp: “Thưa thái tử! Trong cuộc đời này có rất nhiều thứ bệnh tật khácnhau, và chúng thường xuyên đe dọa lây nhiễm đến mọi người trong chúng ta.
Bệnh tật không tha thứ cho bất cứ ai, cả thế giới này phải khóc than, kêu la hằng
ngày vì nó.”
Thái tử nghe qua rồi lấy làm lạ, than rằng:
“Ôi! Con người thật là kỳ lạ! Bệnh tật rình rập làm hại họ trong từng chốc lát,
mà họ chẳng để lòng lo lại còn đắm mình trong những trận vui cười!”
Thái tử liền cùng Xa-nặc quay về, trong lòng nặng trĩu thêm một mối ưu sầu lo
nghĩ nữa.
Vua Tịnh-phạn thấy thái tử ngày càng ưu tư, trầm lặng thì trong lòng càng thêm
lo lắng. Muốn cho thái tử được vui, đức vua liền truyền tổ chức cho ngài dạo
chơi một lần nữa.
Trong chuyến đi lần này, thái tử tình cờ trông thấy đám chết của một người
nghèo. Ngài thấy bốn người khiêng đi một thân thể cứng đờ, bọc trong một
manh chiếu rách, và mấy kẻ theo sau đều khóc kể rất thảm thiết. Đám tang đi ra
một quãng đồng rộng, nơi đã có chất sẵn một đống củi to, và người ta đặt thi thể
người chết lên đống củi rồi nổi lửa mà thiêu.
Thái tử hỏi Xa-nặc:
“Nhà ngươi có biết những người ấy khiêng ai đi đó chăng? Và tại sao họ than
khóc buồn thảm lắm vậy? Tại sao họ lại đặt người ấy lên đống củi to mà thiêu
đốt? Vì sao người ấy không thấy kêu la vì nóng bỏng, giống như những người
khác?
Xa-nặc tâu lên rằng:
“Người ấy thật không còn tri giác, cũng chẳng còn hơi thở. Người ấy chỉ nằm
cứng đơ như cây cỏ, không còn biết vui sướng, khổ sở chi nữa. Anh em, bè bạn
không còn đi lại, kẻ thù nghịch chẳng còn biết tới. Người ấy đã chết rồi.”
Thái tử lại hỏi: “Nếu cái chết là như thế, vậy nó chỉ riêng cho người ấy hay là nó
đến với hết thảy mọi người?”
Xa-nặc tâu rằng:“Mọi người không ai tránh khỏi. Kẻ sang người hèn, kẻ tốt người xấu, rồi đều
cũng phải chết.”
Thái tử nghe rồi liền nói một cách buồn bã rằng:
“Than ôi! Định luật khắt khe là như thế, mà loài người vẫn mãi vui chơi. Bây giờ
ta mới hiểu ra rằng, tâm tánh của nhân loại cũng rắn như sắt đá. Cái chết nó chực
sẵn bên mình, ai ai rồi cũng không tránh khỏi, vậy mà họ vẫn không hề lấy đó
làm điều suy gẫm.”13. GẶP NHÀ DU TĂNGThái tử Sĩ-đạt-ta không giờ phút nào được an lòng. Ngài đi quanh quẩn trong
dinh, trầm ngâm suy nghĩ. Ngài suy nghĩ về một phương cách nào đó có thể cứu
vớt nhân loại thoát ra khỏi những khổ đau khắc nghiệt từ bao đời vẫn dành cho
họ. Trong tâm trí ngài lảng vảng những cảnh già khổ, bệnh khổ, và rồi là cái chết
cuối cùng sẽ đến với tất cả mọi người.
Một hôm, thái tử có ý muốn dạo chơi về vùng thôn quê. Ngài tâu xin vua cha, rồi
ra khỏi thành, đi về phía đồng ruộng.
Đi đã khá xa, đến một chỗ vắng Ngài ngồi xuống nghĩ chân và trong tâm nảy
sinh ý tưởng rằng:
“Thật là đáng thương thay cho người đời. Đã không có sức mạnh nào tự bảo vệ
lấy mình khỏi những điều già yếu, bệnh khổ, sống chết vô thường, mới mạnh
thoạt đau, mới trẻ thoạt già, mới sống thoạt chết, vậy mà vì sự tự cao, sự mê tối
nên chẳng hề sanh lòng xót thương cho những kẻ đang bệnh khổ, kẻ già yếu, kẻ
chết.
“Từ khi trông thấy những người đồng loại chìm trong sự bệnh khổ, chết khổ,
lòng ta luống động mối thương tâm, lo nghĩ không yên ổn. Bản thân ta rồi đây
cũng không thoát khỏi những điều khổ não ấy. Nếu trong kiếp sống này mà ta
chẳng tìm ra được phương cách nào để cứu mình, cứu người, chẳng phải là sống
uổng phí lắm sao?”
Ngay khi ấy, bỗng nhiên ngài trông thấy từ xa đi đến một người, dáng vẻ khác lạ.
Người ấy khoác một tấm áo vàng, rộng và dài, phủ xuống đến tận chân. Tay
khoanh lên trước ngực ôm một cái bát nhỏ, ngoài ra không còn thấy một thứ vật
dụng nào khác. Dáng đi của người thật thanh thoát, vẻ mặt hiền hòa lộ rõ sự an
ổn, thoát tục. Đếm từng bước chân khoan thai, người đi như chỉ để mà đi, không
vội vàng, không hấp tấp, cũng không mong đợi gì ở nơi sẽ đến.
Thái tử liền quay sang hỏi Xa-nặc: “Người đó là ai vậy?”
Xa-nặc đáp: “Người ấy là một vị du tăng. Người lìa bỏ gia đình, thân quyến,
nhà cửa ruộng vườn, ra đi sống cuộc sống không nhà để cầu sự giải thoát an ổn
trong tâm thức. Người không có gì là sở hữu của riêng mình, chỉ ôm một cái bát
nhỏ đi đến đâu thì xin ăn ở đó. Ngay chính cái bát ấy người cũng chỉ xem l
Trăm bài thơ nấu ăn
Sách viết nhưng không dám in vì sợ "chật Garage"
VT Mỹ Ngọc
2004
LỜI MỞ ÐẦU
Xưa nay Linh Bảo vẫn biết là Mỹ Ngọc làm việc rất chu đáo, nhưng không ngờ chu đáo dến mức độ gửi cho LB cuốn Thơ Gia Chánh Thơ đến cả 2 địa chỉ “i Meo” .
My Ngọc sợ một bị lạc thì có “Meo” thứ hai nhận được phải không ?
Ðọc xong LB choáng cả người . Thôi rồi ! Than ôi ! Củi ôi ! Thế là từ nay LB mất ngôi “Chỉ biết ăn, không biết nấu “ rồi . LB thích đeo cái nhãn hiệu này để …trốn làm bếp vì . . . . .tự nhận không biết nấu ăn .
Ðọc xong, không những thấy toàn món ngon, đúng khẩu vị, đúng văn hóa nên gợi hứng, muốn nấu thử nữa!
Gia chánh bằng thơ, chỉ liếc qua là thuộc. Khỏi mở sách kiểm lại từng giòng, từng món . . . . dễ quá . Dễ như ăn ớt!
Nhưng khổ nỗi nếu LB biết nấu cả trăm món ngon lành trong Gia Chánh Thơ này rồi biết mời ai đây!!!
Linh Bảo
06/2004
MỞ QUÁN
Mở quán mà không coi ngày
Coi chừng nồi cháy chảo bay tiêu tùng
Coi chừng khai trương tưng bừng
Âm thầm đóng cửa thẹn thùng lắm thay
Khai trương mở tiệm đến ngay
Tại đây coi bói chỉ tay bấm giờ
Táo tàu đoán trúng hổng ngờ
Mau mau đặt quẻ chần chờ chi đây
mại dô :)
LẠI MỞ QUÁN
Mở quán ăn không lò
Ở cạnh ngay bờ biển
Tưởng đâu là hổng lo
Khách vào hầu mệt nghỉ
Ai ngờ đâu ế rề
Bao nhiêu người lảng vảng
Với dáng điệu rụt rè
Ngó vào rồi đi thẳng
Nàng mặc Bi ki ni
Chàng bận quần xà lỏn
Không có giầy mang đi
Tắm biển lên đói cuống
Nhìn tấm bảng đi luôn
Tiệm người ta nhộn nhịp
Ngó tiệm mình thấy buồn
Thôi chắc tui xin " quít" (quit)
Lột " bảng" xuống mau mau ***
Kẻo không ai thèm tới
Nếu muốn cho chóng giàu
Quán cần phải thay đổi
Tại vì bảng ghi :***" No Shoes, No shirt, No service "
CƠM TAY CẦM
Bánh mì thịt nguội ba tê
Mì gà, xá xíu ăn mê tuyệt vời
Ăn rồi uống nước no hơi
Chân đi hổng nổi phải ngồi xuống đây
:)))
CƠM CHỈ
Ngó hàng cơm chỉ hết hồn
Vài ba chục món thiệt ngon vô cùng
Món chiên, xào, nấu thơm lừng
Thịt kho, măng trộn một rừng chọn chi
Nhiều quá chẳng biết món gì
Nhắm mắt chỉ đại thôi thì cũng xong
Về nhà khỏi rửa nồi son
Ăn no bể bụng hết còn mần thơ
CƠM HẾN
Cơm nguội mình còn dư
Ðể lâu e bị hư
Thôi dùng làm cơm hến
Ăn rồi mê bỏ xừ
Nhớ là phải có rau
Xắt sợi sợi rối nhàu
Có bắp chuối càng tốt
Coi chừng rau có sâu
Cơm, rau sắp vào tô
Hến và tỏi xào sơ
Múc vào để bên cạnh
Chưa gì nghe thơm tho
Ớt, ruốc nhớ đừng quên
Ai có " hẹn" không nên
Ăn món này là chết
Hôn người ta chạy liền
Nếu không có đúng rau
Dùng bắp cải cho mau
Cần rau thơm, rau húng
Không có thiệt là rầu
Hôm nào nhà hết cơm
Mình chế món lạ hơn
Hến đem xúc bánh tráng
Ðổi món ăn cũng ngon
CƠM VẮT
Hôm nay tui lỡ nấu cơm nhão nên ế hông ai ăn hết thôi thì :
Cơm nhão hông ai ăn
Thôi tui đổ ra khăn
Nhớ là khăn phải ướt
Nhào tới lui nhiều lần
Thịt heo xay để riêng
Tép xã bầm liền liền
Nêm nếm cho vừa miệng
Bỏ vào chảo xào ... chiên
Nhớ để lửa riu riu
Rắc thêm vào chút tiêu
Xào qua rồi xào lại
Ăn ngon biết bao nhiêu
Cơm vắt chấm ruốc kho
Ăn vài lát đã no
Vẫn còn thèm ăn nữa
Ai muốn hông tui cho
NƯỚC MẮM KHO QUẸT
Nhớ là lửa nhỏ riu riu
Nhớ là tay phải khuấy đều nghe chưa
Nước mắm trộn đường vừa vừa
Quậy hoài từ sáng đến trưa được liền
Mặn mặn, ngọt ngọt, mềm mềm
Sền sệt như kẹo ăn thêm cơm nhiều
ăn món này ít tốn tiền bà con ơi :))
GỎI CUỐN
Tôm mang luộc, lột vỏ
Rau rửa sạch bày ra
Thịt chín cắt lát mỏng
Tương chấm pha mặn mà
Bánh tráng thấm ươn ướt
Sắp bún, thịt, tôm, rau
Chỉ trong vòng vài phút
Ðĩa gỏi cuốn thiệt ngầu
Có đuôi xanh lá hẹ
Nhìn trông mà phát thèm
Ăn một còn tiếc rẻ
Phải nhất định ăn thêm
BÒ BÍA
Miếng bánh tráng nằm chờ
Sắp vài con tôm khô
Thêm ít lát lạp xưởng
Trứng chiên nhớ bỏ vô
Chút xíu củ đậu xào
Cuốn cho thật chặt vào
Tương nhớ rắc đậu phộng
Ăn nghe vị ngọt ngào
MÍT TRỘN
Mít luộc vắt thiệt khô
Xé ra từng lát nhỏ
Tôm thịt luộc phải có
Trộn cho thiệt đều tay
Mè rang chớ quên này
Thêm rau thơm xắt sợi
Nghe mùi đã thấy đói
Mau mau hãy dọn ra
Ấy còn đĩa bánh đa
Không thể nào quên được
Bẻ ra dùng để xúc
Mít trộn ngon làm sao
Tiêu muối nêm nếm vào
Ăn phải thật chậm rãi
Một lần là nhớ mãi
Bánh tráng xúc mít đây .....
BÁNH XÈO/ BÁNH KHOÁI
Cần rau thơm với cải xanh
Bánh xèo thêm giá, thêm hành nhiều nghe
Tôm thịt tui hổng có mê
Cho thêm nhiều nấm ô kê lắm rồi
Ba cái là no thấu trời
Lấy rau cuốn bánh tuyệt vời người ơi
Mấy người ăn chay dễ thôi
Tàu hủ thế thịt và rồi cũng xong
Bánh chiên phải thật cho dòn
Trong Nam ngoài Huế bánh tròn như nhau
Cũng là màu nghệ vàng thau
Bánh xèo, bánh khoái y nhau chứ gì
Nước chấm chỉ khác tí ti
Bên pha nước mắm, bên thì chấm tương
BÁNH LÁ (BÁNH NẬM)
Tôm luộc rồi đem xay
Bột gạo dáo liền tay
Lửa riu riu kẻo khét
Ðược rồi nhắc xuống ngay
Tôm xào với dầu hành
Lá chuối chọn non xanh
Nồi nước sôi bỏ trụng
Vớt ra cho thật nhanh
Lá chuối lau thật khô
Múc muổng bột bỏ vô
Rắc thêm muổng tôm chấy
Chưa gì đã thơm tho
Xếp bánh lại làm tư
Vuốt bánh ngó nhuyển nhừ
Bỏ vào cái xửng hấp
Chín rồi chẳng ngần ngừ
....
Ăn một lèo chục cái
BÁNH BÈO
Bột gạo đổ ra thau
Lường nước trộn lẫn nhau
Quậy đều cho tan nhuyễn
Rắc chút muối nêm vào
Lấy thịt nạc xắt, bầm
Tôm luộc đem lột trần
Ðể ráo nước giả nhuyễn
Nêm, xào với dầu, hành
Bắt xửng nấu thật sôi
Sắp chén đầy mặt nồi
Ðổ bột vào chén hấp
Bánh chín, trong, được rồi
Chờ bánh nguội trét nhân
Rắc lên mặt mỡ hành
Ăn phải có nước mắm
Pha tỏi ớt với chanh
BÁNH CHƯNG
Bánh tét hay bánh chưng
Chắc chắn ai cũng biết
Ai ai cũng phải cần
Biếu nhau trong dịp Tết
Dùng khuôn là chắc tay
Nếp vo để ráo nước
Cần mỡ, thịt nạc vai
Ðậu xanh ngâm tán nhuyển
Lá dứa giả, lọc màu
Trộn chung vào với nếp
Thịt, mỡ cho tỏi vào
Ðem xào cho chín hết
Xếp lá vào trong khuôn
Kế đến là bỏ nếp
Từng lát thịt vuông vuông
Nhân, mỡ gì có hết
Gói bánh rồi buộc dây
Nấu lửa sôi sùng sục
Cũng mất hết nưả ngày
Nhớ canh nuớc chừng mực
Bánh chín rồi vớt ra
Nhớ để cho ráo nuớc
Biếu bà con làm quà
Ba ngày tết đẹp ước
BÁNH BỘT LỌC TRẦN
Bột năng chế nước sôi
Hai tay ta cứ nhồi
Nhớ làm mau làm kỷ
Không dính tay mới thôi
Hành phi mỡ cho thơm
Cắt thịt và lột tôm
Bỏ vào xào cho chín
Nêm vừa miệng là ngon
Cắt bột để ra bàn
Tôm thịt bỏ giữa tâm
Gấp hai mí bột lại
Nhớ bóp chặt chắc ăn
Thả bánh vào nước sôi
Bánh chín sẽ trong, trồi
Nổi lều bều lên mặt
Vớt ra liền dễ thôi
Nước mắm ớt xắt khoanh
Bánh được trét mỡ hành
Ðố ai chỉ ăn một
Chậm chân là hết nhanh
Nếu không muốn bánh trần
Thì ta mặc áo quần
Lấy lá chuối gói lại
Nhồi nước sôi không cần
Bột pha nước dáo đều
Lưả để nhỏ riu riu
Muốn kiểu nào cũng được
Ăn ngon biết bao nhiêu
BÁNH GIÒ
Bằm nhỏ miếng thịt heo
Ướp với mắm, muối, tiêu
Ðổ dầu, hành vào chảo
Xào chung với nấm mèo
Bột trộn nước cho tan
Liền tay khuyấy nhiều lần
Nhớ giảm lưả nhỏ xuống
Bột đặc để ra bàn
Lá chuối rửa lau khô
Múc muổng bột bỏ vô
Cho nhân vào chính giữa
Gói chặt lại khỏi lo
Xửng nước cũng đã sôi
Sắp bánh vào đi thôi
Hấp đến khi bánh chín
Mở ra ăn ngon ơi
CANH CHUA CÁ BÔNG LAU
Soong đổ nước vừa vừa
Nêm nước mắm, me,ớt
Thêm củ hành đâm nhỏ
Bỏ vào nấu cho sôi
Vớt ra lọc ngay thôi
Lấy một cái soong khác
Nấu sôi mấy khứa cá
Nhớ vớt bọt bỏ ra
Ðừng quên giá, bạc hà
Cà chua thêm sau đó
Xắt vài khoanh ớt đỏ
Mắm muối nêm vừa ăn
Nhớ trộn nước me dầm
Rau thơm không thiếu được
Nồi canh nóng mời mọc
Ai nhìn cũng phát thèm
CÁ RÚT XƯƠNG
Một con cá thu to
Hai trăm gam thịt nạc
Tiêu, muối đường, mỡ, bơ
Nấm mèo, hành bầm nát
Lấy dao xẻ đường dài
Luồn dưới bụng con cá
Rút ruột lóc xương ra
Dồn nhân vào rồi vá (dùng kim may lại)
Cá đặt trong khay nhôm
Bỏ vào lò lửa nướng
Rưới bơ lên cho thơm
Thấy vàng đều là chín
Lấy cá đem sắp ra
Chung quanh chanh thái mỏng
Thêm hành lá tỉa hoa
Cá tiêu diêu bất động
ÐỒ BIỂN CHIÊN DÒN
Mực rửa sạch lấy râu
Tôm lột vỏ bỏ đầu
Hoặc muốn ăn đồ biển
Món nào cũng giống nhau
Ướp tỏi hành muối tiêu
Rắc bột trộn cho đều
Nhúng vào chảo dầu sôi
Ðừng để lửa riu riu
Chiên vàng rồi lấy ra
Chấm tương ớt xuýt xoa
Ui da cay quá xá
Ðừng quên bia “ băm ba “
RAGU LƯỠI BÒ
Một cái lưỡi con bò
Khoai tây lựa tròn vo
Vài ba củ cà rốt
Sốt cà hộp bỏ vô
Lấy hành tỏi ra băm
Bỏ vào xào một phần
Chung với khoai, cà rốt
Gần chín vớt ra nhanh
Lưỡi rửa sạch cạo da
Ướp gia vị đậm đà
Bắt một chảo dầu nóng
Hành còn lại xào qua
Thịt săn nêm muối tiêu
Vặn lửa lại riu riu
Ðổ nước sôi ngập thịt
Nấu tiếp cho chín đều
Cà rốt, khoai tiếp theo
Nước cạn thịt cũng teo (săn)
Thêm bột mì hòa nước
Sốt sền sệt trong veo
Bánh mì bỏ nướng lò
Thịt sắp vài cọng ngò
Ðể trên mặt cho đẹp
Ăn ngon muì thơm tho
BÒ TÁI CHANH
Nửa ký lô thịt bò
Rau răm, ớt, tỏi, ngò
Củ kiệu chua xé sợi
Hành phi vàng thơm tho
Giã nhỏ đậu phộng rang
Sau khi rang thiệt vàng
Chanh thì vắt lấy nuớc
Mắm, muối, đuờng rất cần
Thịt xắt ướp tỏi tiêu
Ướp lâu thịt thấm nhiều
Hành tây bào ngâm dấm
Tất cả trộn cho đều
Thịt chin là nhờ chanh
Rắc đậu phọng, rau răm
Nhớ bằm thêm tí ớt
Quậy nuớc mắm vừa ăn
Ðừng quên bánh phồng tôm
Chiên lên cho thật dòn
Xúc ăn cùng với gỏi
Có còn gì ngon hơn
GỎI BƯỞI
Bưởi bẻ múi vừa ăn
Tôm rang muối bóc vỏ
Thịt luộc chín xắt nhỏ
Cắt từng khúc cần tàu
Ớt thái sợi, tỉa hoa
Gà ướp hấp xé sơị
Cà rốt xắt vắt tơí
Ðến khi ráo mới thôi
Dưa leo xắt rối bời
Nhớ bỏ vỏ và ruột
Ướp đường vắt ráo tuốt
Xong đến cắt hành tây
Cũng làm giống trên đây
Cho tất cả vào trộn
Nêm gia vị vừa miệng
Mắm, đưòng, chanh, vừa ăn
Rải lên đậu phộng rang
Món chính luôn phải nhớ
Bánh phồng tôm là nó
Hông có làm sao ngon
GỎI ÐU ÐỦ
Một trái đu đủ hườm
Rau răm hay rau thơm
Chanh ớt và nước mắm
Tai heo hoặc thịt, tôm
Giã nhỏ đậu phọng rang
Hành nhớ phi cho vàng
Ðường, giấm và gia vị
Nhớ đừng quên ớt bầm
Ðu đủ bào đem ngâm
Hấp chin lột vỏ tôm
Thịt luộc chín xắt mỏng
Chanh bỏ đường quậy tan
Nước mắm hòa trộn chung
Cho tỏi phi vào cùng
Trộn đều hết tất cả
Rưới nước mắm khi dùng
Xếp ra đĩa thịt tôm
Trên mặt rắc rau thơm
Rồi hành phi đậu phọng
Ðẹp thơm ngon mặn nồng
Nếu muốn làm gỏi chay
Thịt và tôm phải thay
Cũng không dùng nước mắm
Là ăn chay được ngay
Thay vào bằng mì căn
Thêm một ít nấm rơm
Muốn dùng củ cải trắng
Nước tương rồi cũng xong
GỎI MĂNG
Một nửa con gà mềm
Một chút nước mắm nêm
Hành lá, đường và muối
Hành tím, hành tây, thêm
Ðừng quên rau, ớt, chanh
Chính là phải có măng
Gia vị và đậu phọng
Giã sau khi rang vàng
Mở lửa bắt nước sôi
Gà sạch bỏ vào nồi
Nhớ cho thêm chút muối
Gà chín vớt ra thôi
Xé miếng vừa vừa ăn
Hành lột vỏ phi vàng
Rau, ớt, rửa xắt nhỏ
Luộc, rửa sạch củ măng
Măng ráo cho vào thau
Trộn cả vào với nhau
Hành tây, chanh, đường muối
Trên mặt xắp ngò, rau
GỎI MIẾN GÀ
Hai trăm gam miến tàu
Cần tây và củ tỏi
Kiệu chua phải xé sợi
Cần cà rốt và gà
Miến trụng nở lấy ra
Xổ nước lạnh để ráo
Trộn dầu mỡ, cắt khúc
Gà ướp với muối tiêu
Xé miếng vừa đều đều
Chanh bỏ hột xong vắt
Cà rốt đem ra thái
Cho muối trộn đều, mềm
Rửa sạch, để một bên
Rau răm xắt cho nhuyễn
Trộn tất cả với miến
Ăn thua nước mắm pha
Nêm sao cho mặn mà
Chút chua chua ngọt ngọt
Nhớ đừng quên bỏ ớt
Rắc đậu phọng, rau răm
GỎI BAO TỬ (1)
Tôm hấp, lột chẻ đôi
Thịt luộc chín xắt mỏng
Bao tử rửa đừng hôi
Luộc kỷ đừng để sống
Củ cải trắng đem bào
Cả dưa leo cà rốt
Xắt ớt đỏ, cần tàu
Vắt càng khô càng tốt
Chớ quên bánh phồng tôm
Ðường dấm pha nước mắm
Ðậu phộng rang thiệt thơm
Nhớ trộn đều cho thắm
Ðĩa gỏi sắp ra bàn
Rắc đậu phọng lên mặt
Thêm chút xíu ngò, cần
Vừa ngon vừa đẹp mắt
GỎI NGÓ SEN
Cũng giống gỏi bao tử
Nhưng không cần dưa leo
Không cần củ cải trắng
Chỉ thế vào ngó sen
Phải thay thế bao tử
Bằng bạc thẻ, tôm càng
Tôm càng thì nướng lửa
Bạc thẻ hấp đàng hoàng
Cách làm thì cũng giống
Ăn phải có phồng tôm
Mỗi người tùy sở thích
Xem món nào ngon hơn
GỎI MÍT NON
Ba trăm gam mít non
Một trăm gam đậu phộng
Cộng thêm thịt ba rọi
Và một ít tôm tươi
Mít bỏ hột, bỏ cùi
Rồi đem ra xắt rối
Luộc chín xong vắt ráo
Ðể riêng qua một bên
Tôm lột bỏ chỉ đen
Ướp tiêu và gia vị
Thịt thái mỏng sợi chỉ
Cho vào chảo dầu xào
Ðổ tôm thịt trộn đều
Khi chín bắc ngay xuống
Tỏi ớt đem băm nhỏ
Chanh đường quậy cho đều
Muốn thơm bỏ tỏi nhiều
Trộn chung với nước mắm
Cùng tôm thịt và mít
Rửa sạch, xắt rau răm
Giả nhỏ đậu phộng rang
Sắp gỏi dọn ra đĩa
Rắc rau răm lên mặt
Ðậu phộng bỏ trên cùng
….
sơi
GỎI BAO TỬ (2)
Một cái bao tử heo
Ba trăm gam ngó sen
Ba trăm gam giò lụa
Chừng hai củ hành tây
Một ít nước mắm ngon
Nhớ đừng quên rau răm
Giấm, muối, đường, gia vị
Ớt chín và tỏi băm
Bao tử mua về rồi
Rửa sạch với nước sôi
Lúc nấu bỏ chút muối
Cạo sạch nhớt trong ngoài
Xong bắt một chảo lên
Ðổ chén giấm đun sôi
Nấu độ chừng năm phút
Bao tử nhớ trở đều
Sau đó cho vào xoong
Lại lấy nước đem đun
Luộc bao tử vừa chín
Ðể nguội cắt vừa ăn
Giò lụa thái để riêng
Hành chẻ ngâm giấm đường
Rau răm nhặt rửa sạch
Thái nhỏ cũng để riêng
Ngó sen tướt sợi ngoài
Nước lạnh pha muối ngâm
Rửa sạch ngâm lại giấm
Vớt ra lúc gần ăn
Hành tây và ớt băm
Ðựng trong tô giấm ngăm
Quậy với đường, nước mắm
Chua ngọt vừa miệng nêm
Ðáy dĩa trải ngó sen
Rồi đến bao tử heo
Ngó sen sắp kế tiếp
Giò lụa sắp lên trên
Rồi những khoanh hành tây
Rau răm, ớt đỏ cay
Rưới nước mắm chua ngọt
ăn nhẹ bụng, ngon thay
BA TÊ GAN
Bò heo chỉ lấy gan
Thêm mỡ chài, thịt nạc
Muối tiêu tỏi bột năng
Hành, gan thịt xay, cắt
Cho tất cả vào nhồi
Khi đã được xay nhuyển
Nêm vừa miệng ngon ơi
Có thể đem nướng thử
Trải mỡ chài vào khuôn
Kế đến gan, nhân thịt
Xếp lên vài lá thơm
Bỏ đút lò cho chín
Ðể nguội ăn mới ngon
Phải ém cho thiệt chặt
Quẹt vào bánh mì dòn
Ăn lai rai, lắt nhắt
THỊT KHO NƯỚC DỪA
Ðùi heo một ký lô
Nước mắm và chút muối
Một trái dừa thiệt to
Ðường thẻ và tép tỏi
Thịt rửa sạch cạo lông
Xong ướp tỏi giả nhuyển
Chưa gì đã thơm nồng
Ðể cho thấm gia vị
Thịt đem bỏ vào nồi
Nấu cho sắc nước lại
Thêm nước dừa, nước sôi
Vớt bọt chớ ngần ngại
Xong bớt lửa riu riu
Thỉnh thoảng nhớ vớt bọt
Ðậy nắp cho mềm đều
Thịt mặn mặn, ngọt ngọt
Nước kho phải thật trong
Thịt mềm không được nát
Cắn ớt hiểm, và cơm
Ngon cay chảy nước mắt
CÀ RI GÀ
Gà làm sạch chặt ra
Hành tỏi xắt bầm nhỏ
Khoai tây nhớ lột vỏ
Ướp gà với muối tiêu
Cà ri chà ướp đều
Bắt chảo vặn lửa lớn
Ðợi một chút cho nóng
Bỏ gà vào chiên vàng
Nhìn thấy thịt hơi săn
Ðổ nước dừa sấp sấp
Nhớ cẩn thận đóng nắp
Hầm cho thịt gần mềm
Bỏ khoai tây vào thêm
Nếu muốn ăn beo béo
Nêm cho đừng nhạt nhẽo
Thêm sửa, nước cốt dừa
Ăn tối hay ăn trưa
Ăn với cơm hay bún
Hay với bánh mì nướng
Không còn gì ngon bằng
GÀ NẤU ÐẬU
Một con gà mái tơ
Ðậu hòa lan hột, nấm
Hành lá thơm lá ngò
Muối tiêu và nước mắm
Gà rửa chặt miếng to
Ướp gia vị mắm muối
Cho vừa miệng, thơm tho
Nhớ bằm thêm hành tỏi
Bắt chảo dầu để sôi
Cho hành toỉ bầm nhỏ
Bỏ gà vào chiên sơ
Hơi vàng là được đó
Lấy một soong khác ra
Lại xào dầu với toỉI
Ðổ vào một hộp cà
Cho gà hầm chín tới
Nước sôi nhớ châm thêm
Gà mềm cho đậu hộp
Bỏ nấm rơm, nếm nêm
Trộn nước lạnh với bột
Ðổ bột này vào gà
Khi thấy đặc sền sệt
Tắt ngay lò bếp ga
Dọn ăn ngon hết biết
GÀ ẤP TRỨNG
Một con gà mái dầu
Bảy trăm gam giò sống
Năm mươi gam bún tàu
Hai mươi cái trứng cút
Một ít nấm đông cô
Hành lá, củ hành nhỏ
Trăm gam xà lách son
Gia vị, tiêu muối tỏi
Hột gà và hạt sen
Bột ngọt rồi tương ớt
Một muỗng súp bột năng
Vật liệu nhớ đầy đủ
Gà làm sạch nguyên con
Rút xương ra chừa thịt
Rửa xong lau cho khô
Sau khi đã ráo nước
Ngâm, rửa, cắt bún tàu
Trứng cút luộc lột vỏ
Hạt sen luộc chín mềm
Xong rồi mới giả nhỏ
Ngâm rửa nấm đông cô
Mang ra xắt hột lựu
Xắt, bầm nhỏ tỏi hành
Cho giò sống vào tượng
Kế đến là hạt sen
Nấm, hành tỏi bầm nhỏ
Bún tàu, gia vị nêm
Nước tương, hoặc bột ngọt
Nhớ phải trộn cho đều
Dồn vào gà khi nảy
Xong phải dùng kim may
May đường lưng gà lại
Lấy dây cột hai chân
Rồi buộc vòng qua bụng
Cho nước sôi vào nồi
Bỏ vào tép hành lá
Thả bộ đồ lòng vào
Cho thêm một chút muối
Nấu xương gà cho mềm
Nước sôi nhớ vớt bọt
Thả gà đã may vào
Luộc gà cho hơi chín
Ðộ khoảng chừng một giờ
Lấy ra để ráo nước
Xịt xì dầu lên gà
Khi chiên phi hành tỏi
Trở gà chiên cho vàng
Chưa gì nghe thơm phức
Cho bột năng vào tô
Nước dùng lấy một chén
Quậy bột tán cho đều
Thêm tỏi hành bầm nhỏ
Một muỗng súp nước tương
Nếu muốn thêm bột ngọt
Một hột gà đánh vào
Quậy đều tới khi chín
Sắp xà lách quanh tô
Ðể trứng cút vào giữa
Chế nước sốt lên trên
Ðặt gà nằm trên trứng
Trông đẹp mà lại ngon
Hệt như gà ấp trứng
Món này đem bày bàn
Khi ăn xắt lát mỏng
GÀ SIU SIU
Một con gà mái tơ
Rửa sạch để ráo nước
Gia vị đem ra ướp
Chừng nửa tiếng đồng hồ
Bỏ vào nồi nước sôi
Cho vào một chút muối
Vài củ hành xắt rối
Luộc gà và đồ lòng
Nước lèo đổ ra soong
Khi con gà chín tới
Vớt ra để cho nguội
Chặt từng miếng vừa ăn
Ðổ gạo vào nấu cơm
Khi chín múc ra đĩa
Dưa leo, cà rốt tỉa
Sắp gà bày chung quanh
Ăn sạch bách tan tành
Tại là vì ngon miệng
Nói nghe chảy nuớc miếng
À,
Ðừng quên nước mắm gừng
MÌ XÀO DÒN ÐỒ BIỂN
Cần ba vắt mì tươi
Mực, tôm, thịt gà heo
Cà rốt, cần, bông cải
Ngò, hành tây, muối tiêu
Mì bỏ vào chảo chiên
Mì nổi phồng miếng nguyên
Nhớ là lửa thiệt nóng
Gắp vớt ra dĩa liền
Kế đến xào tỏi thơm
Cho đồ biển thịt tôm
Nêm gia vị mắm muối
Bột sền sệt vừa trong
Ðổ sốt xong bỏ ngò
Nhớ rắc tiêu sơ sơ
Khi dọn nhớ tương ớt
Ðể ai cần thêm hờ
TRÉ
Món này các ông ưa
Tré hay là Nem chua
Uống vào mấy xị đế
Nằm lăn quay say sưa
Một ký đầu thịt heo
Mè, tỏi, riềng, muối, tiêu
Cần lá ổi lá chuối
Thính thơm biết bao nhiêu
Tiêu xay, tỏi phải băm
Thịt xắt mỏng, mè rang
Riềng giã nhuyễn trộn thịt
Trộn đều nước mắm ngon
Thịt gói chặt buộc dây
Treo độ khoảng năm ngày
Ðể ở nơi khô ráo
Thơm, ngon, chua, tiêu cay
BÁNH TÔM CHIÊN
Hai trăm gram khoai lang
Bột gạo hay bột năng
Thêm bột mì bột nổi
Tôm là chính rất cần
Mắm, muối, chanh, ớt dầu
Phải có dưa leo, rau
Rau thơm và sà lách
Thiếu rau coi bộ rầu
Tôm rửa sạch bỏ đầu
Lặt chân và chừa đuôi
Khoai lang gọt xắt sợi
Các thứ bột trộn đều
Múc muỗng bột trộn khoai
Ðể con tôm nằm dài
Chiên vàng cả hai mặt
Chín dòn vớt ra ngay
Bánh tôm dùng với rau
Những lát ớt đỏ màu
Nằm trong chén nước mắm
Chấm ăn, ngon gì đâu
KÌNH NGƯ TẮM NẮNG
Ba trăm gam tôm thẻ
Rửa sạch ướp muối hành
Một ổ mì "xăn wích"
Bột mì và bột năng
Một mớ cải sà lách
Bốn lòng trắng hột gà
Gừng, bột ngọt tiêu hột
Bánh mì cắt lát ra
Ðánh lòng trắng cho nổi
Hai thứ bột trộn chung
Bỏ vào đánh cho tới
Ðể qua chút nữa dùng
Hai hột tiêu làm mắt
Tôm đặt giữa bánh mì
Trét lên chút lòng trắng
Dầu sôi chiên tức thì
Bánh chiên phải cho xốp
Muốn ngon bánh phải dòn
Không cháy và không khét
Sắp ra cái đĩa tròn
TÔM XÀ RÔNG
Vật dụng cần tôm lớn
Vài vắt mì, thế thôi
Món này ăn không ớn
Con nít thích nhất rồi
Tôm lột vỏ rửa sạch
Nhớ chừa lại cái đuôi
Mì sợi làm quần áo
Quấn chung quanh vòng ngoài
Nhớ vặn lửa cho lớn
Chảo dầu phải thật sôi
Nhớ coi chừng tay bỏng
Chiên một chút được rồi
Vớt ra ngay để ráo
Sắp trên đĩa rau xanh
Món này ăn với xốt
Hết chục con ngon lành
CHẠO TÔM
Cần một trái dừa xiêm
Hai ký lô tôm thẻ
Hai trăm gam mỡ thịt
Thêm một muỗng phèn chua
Khoảng ba cây mía lau
Ba mươi cái bánh tráng
Muối đường tiêu tỏi ớt
Hành, bột ngọt nếu cần
Tôm lột vỏ xẻ lưng
Rửa sạch đem chà muối
Cho đến khi hết nhớt
Rửa lại bằng nước phèn
Lau khô ngâm nước dừa
Vớt tôm bỏ vào cối
Ðem quết với hành lá
Tỏi cũng bỏ vào chung
Trước khi đem mỡ phơi
Mỡ thịt phải xắt chỉ
Trộn vào đó tí muối
và thêm 1 muỗng đường
Sau khi quết nhuyễn tôm
Nêm muối tiêu bột ngọt
Hàn the, đường, mỡ thịt
Nhớ trộn cho thật đều
Nướng thử xem vừa ăn
Vậy là được rồi đó
Kế đến mía đem lóc
Sau khi chẻ làm tư
Gọt lại cho mía tròn
Tay nhớ thoa chút mỡ
Bọc tôm vào chính giữa
Hai bên đầu nhớ chừa
Nướng chạo trên lửa than
Lửa vừa để tôm chín
Gần ăn nhớ nướng lại
Cùng bánh tráng và rau
Khế, chuối chát, dưa leo
Chấm tương rắc đậu phọng
Thêm đồ chua ớt tỏi
Nghỉ tới nghe đã thèm
BÚN BÒ HUẾ
Nước dùng nấu với giò, gân
Thịt đùi ướp xả, ớt, hành, muối tiêu
Bỏ lên lửa nấu riu riu
Xong rồi cắt lát sắp đều mặt tô
Rắc thêm chút xíu hành ngò
Nước sôi sùng sục thơm tho cả nhà
Ngồi ăn tô bún hít hà
Nước mắt nước mũi tùm là.... tùm lum
:)))
BÚN THANG
Ba trăm gam sườn heo
Một con gà, chả lụa
Một mớ tôm khô queo
Ba hột vịt, bún luộc
Cà cuống và mắm tôm
Gia vị như mắm muối
Củ hành ngò rau răm
Nhớ là không được thiếu
Ðổ nước lạnh vào nồi
Ðun lên cho hơi nóng
Muối và gà thả vào
Vớt ra khi gà chín
Lúc luộc nhớ cho hành
Xắt từng lát mỏng mỏng
Gà nguội xé tanh bành
Ðể riêng vào một đĩa
Cho sườn vào nước gà
Khi nấu nhớ vớt bọt
Ðến khi sườn thật mềm
Mới lấy nước dùng được
Cho tôm khô vào nồi
Khi nước dùng đã được
Lấy ra lọc hoặc rây
nêm mắm muối bột ngọt
Còn một ít tôm khô
Ðem ngâm nước rửa sạch
Giả nát chà như tơ
Chả lụa, trứng xắt sợi
Xắt nhỏ rau, hành ngò
Lót rau răm xuống dưới
Bỏ bún tươi vào tô
Sắp thịt, tôm, chả, trứng
Giữa tô để hành ngò
Món này phải ăn nóng
Mở lửa lên cho to
Nếu muốn thêm cà cuống
BÚN ỐC
Hôm qua mưa đổ sụt sùi
Tui mang đèn ống *, dùi cui xuống đường (*đèn pin)
Cứ nhắm ngay mấy đường mương
Dễ thôi Rắn rít, Ốc, Lươn, có liền
Muốn cho ngọt nước dùng
Hầm nhiều nhiều xương sườn
Nêm mắm muối gia vị
Bắt nồi nước lên đun
Nước sôi bỏ cà vào
Cà muốn ngon nhớ xào
Cho thêm chút mắm muối
Phi hành tỏi cho thơm
Cà chua nhớ coi chừng
Ðừng để cho nát nhừ
Ðừng để vào sớm quá
Nó nát thành “ cà tương”
Ốc phải đem xào riêng
Xong để qua một bên
Sau khi đã nêm nếm
Ðừng bỏ vào vào nước dùng
Ðơm bún vào trong tô
Sắp ốc, rắc hành ngò
Ðun nước dùng cho nóng
Khi ăn múc đổ vào
Không thể thiếu giá rau
Hay là bắp chuối bào
Nếu có rau muống chẻ
Thì ngon lành biết bao
Ðừng quên nước chấm gừng
Nếu muốn thêm mắm tôm
Mỗi người ăn một ý
Người nấu cũng tùy nghi
BÚN RIÊU
Hai ký lô cua đồng
Me chín và mắm tôm
Nửa ký cà chua chín
Mắm muối tỏi ngò hành
Cua rửa sạch bỏ mai
Gở gạch bỏ vào tô
Thịt cho vào cối giả
Xong bỏ hết vào soong
Cho nước khoảng ba tô
Giả, lọc lại hai lần
Gạn nước cho hết sạn
Hết thịt cua thì thôi
Cắt sáu theo múi cà
Phi hành tỏi cho thơm
Bỏ vài giọt cua gạch
Cho cà chua vào xào
Bắt nước cua lên đun
Nước sôi bỏ cà vào
Bớt lửa cho nhỏ lại
Cho thêm nước me vào
Nêm sao cho vừa ăn
Hơi ngọt ngọt chua chua
Là bắt nồi cua xuống
Ðể riêng qua một bên
Bắt chảo dầu lên lò
Phi hành tỏi thơm tho
Xào gạch cua sền sệt
Ðể dành đổ mặt trên
Nhớ đừng quên hành ngò
Rắc chút tiêu cho thơm
Ăn thua màu cua gạch
Vừa đẹp vừa ăn ngon
Bún cho vào trong tô
Múc nước cua đổ vào
Khi ăn nhớ hâm nóng
Thêm mắm tôm, và rau
PHỞ BÒ
Một kí lô xương bò
Hai củ hành tây to
Thịt phi lê, thịt nạm
Hành lá, rau quế, ngò
Hồi, giá sống, củ gừng
Tương đen, quế, ớt tương
Bánh phở là món chính
Kế đến là nước dùng
Nướng củ gừng, hành tây
Thịt rửa sạch lau ngay
Nấu lửa to vớt bọt
Nước trong mới là hay
Bánh phở đem trụng sơ
Cho tất cả vào tô
Hành lá, thịt xắt mỏng
Thêm ớt, chanh, quế, ngò
Nước phở nêm vừa ăn
Mùi thơm bốc nồng nàn
Nhìn tô phở hấp dẫn
Ít ai ăn một lần
CHẢ THỦ
Lổ mũi, tai, da heo
Nước mắm, đường, muối tiêu
Hành tây, tỏi, gia vị
Lá chuối, dây cần nhiều
Lá chuối phơi xé dài
Xắt mỏng củ hành tây
Mũi, tai, da rửa sạch
Luộc, xắt lát trộn ngay
Bỏ tất cả vào thau
Ðổ dầu ra chảo xào
Khoảng độ hai mươi phút
Mở lá chuối đổ vào
Thịt đang nóng gói liền
Làm hoài tay cũng quen
Eùp gói cho thiệt chặt
Món ngon cả ba miền
VỊT BẢY MÓN
Vịt cắt cổ nhổ lông
Ðể dành bộ đồ lòng
Trộn làm tiết canh vịt
Nhớ đừng quên rượu nồng
Cao sang có vịt quay
Ăn một muốn ăn hoài
Vịt Bắc Kinh dòn rụm
Vịt Tỳ Bà ngon thay
Muốn giản dị, bình dân
Có món vịt xáo măng
Hay vịt chấm nước mắm
Gừng, quan trọng, rất cần
Vịt tiềm, Vịt nấu chao
Bạn ơi thích món nào?
Hay là cho nhẹ bụng
Dùng cháo Vịt xem sao
VỊT TIỀM
Vịt làm sạch nhổ lông
Xắt hạt lựu củ năng
Táo đỏ ngâm cho nở
Bỏ nhụy ngâm kim châm
Bạch quả đem luộc mềm
Xắt hạt lựu củ hành
Dừa xiêm chỉ lấy nước
Nấm đông cô ngâm mềm
Chảo nóng cho mỡ vào
Củ hành lấy mang xào
Thêm tất cả các thứ
Nêm gia vị mặn mòi
Dồn các thứ vào trong
May bụng vịt lại xong
Bắt một chảo dầu nóng
Ðể vịt vào chiên vàng
Mía sắp dưới đáy nồi
Nấu nước cho thiệt sôi
Cho nước dừa, chút muối
Bỏ vịt hấp ngay thôi
Bắt nồi nước thiệt to
Cho nồi vịt vào lò
Nhớ phải chưng cách thủy
Vịt chín nhớ sắp ngò
Vịt chín mềm múc ra
Nhớ nêm cho vừa ăn
Nhớ vịt mềm không rã
Thơm ngon mùi nồng nàn
CHÁO CÁ GIÒ HEO
Giò rửa sạch cạo lông
Chặt khúc cho vào soong
Hầm mềm xắt lát mỏng
Coi chừng bỏng tay phồng
Gạo đổ nước đem vo
Xong rang cho cứng se
Trong chảo dầu thật nóng
Ðập hành lá bỏ vô
Cá sạch cắt đầu đuôi
Luộc chung với giò heo
Cá lóc xương lạng mỏng
Nhớ ướp mắm, gừng, tiêu
Cá chín tới vớt ra
Gạo rang đổi màu ngà
Ðổ gạo vào nồi nước
Nấu cháo cho thật nhừ
Gắp cá bỏ vào tô
Cho hành lá và ngò
Cháo phải để thật nóng
Múc cháo đổ ngay vô
Nêm tiêu vào cho ngon
Rắc chút đậu phọng rang
Cháo nóng cá sẽ chín
Mình đổ mồ hôi ròng
SUÔNG
Tôm lớn một ký lô
Xương heo lựa miếng to
Rửa sạch chặt từng khúc
Nấu sôi trên bếp lò
Rửa sạch lột vỏ tôm
Nước dừa chế vào ngâm
Như vậy tôm mới ngọt
Xong vớt ra lau khô
Nhớ đừng quên tỏi, hành
Gia vị mắm, muối, tiêu
Bỏ vào cối giả nhuyễn
Thêm chút hàn the phi
Nước lèo đã nấu xong
Nhớ lọc nước cho trong
Dùng rây lọc cho kỷ
Nước ngọt sẳn sàng dùng
Thả tôm quết vào nồi
Nước lèo phải thật sôi
Nêm gia vị nước mắm
Vừa ăn là được rồi
Nếu muốn ăn gạch tôm
Bắt chảo mỡ cho sôi
Cho tỏi hành bằm nhỏ
Quậy gạch tôm cho đều
Xong bỏ gạch tôm này
Vào nước lèo sôi, ngay
Món này ăn với bún
Rau xanh, ớt đỏ cay
CHẢ CUA
Chỉ cần vài con cua
Rửa sạch rồi hấp chín
Ðể ráo gở lấy thịt
Ðể riêng qua một bên
Nấm mèo bầm liền liền
Bún tàu phải ngâm nước
Rửa sạch rồi cắt ngắn
Hành tỏi cũng mang bầm
Trộn vào hết một lần
Thịt cua vắt cho ráo
Thịt mở luộc thái sợi
Thêm lòng đỏ đánh tan
Nêm gia vị vừa ăn
Khuôn thiếc thoa đều mở
Ðổ chả, trét lòng đỏ
Ðem hấp hay nướng lò
CHẢ GIÒ CUA BIỂN
Một kí thịt nạc dâm
Củ sắn hoặc củ năng
Một kí lô cua thịt
Hành, tỏi, ớt, đường, chanh
Hai hột gà, nấm mèo
Dấm, bột ngọt, muối tiêu
Cà rốt củ cải trắng
Rau, xà lách, giá, BIA
Rửa, hấp gở thịt cua
Rửa, xắt sợi nấm mèo
Thịt nạc xắt bằm nhỏ
Hành tây xắt cũng bằm
Bún tàu rửa sạch ngâm
Tất cả dùng làm nhân
Thêm củ sắn xắt sợi
Trộn nêm cho vừa ăn
Muốn cho bánh dòn lâu
Trước khi bỏ nhân vào
Thoa ngoài mặt bánh tráng
Chút bia nhớ tráng đều
Nếu bánh tráng quá to
Thì nhớ cắt làm tư
Cho nhân vào cuốn lại
Coi chừng bị bung ra
Bắt chảo dầu lên lò
Khi chiên vàng chả giò
Vớt ra để cho ráo
Nhớ để lửa cho to
ỐC NHỒI
Hôm qua trời đổ mưa dầm
Ra vuờn bắt ốc vào làm thức ăn ….
Hai chục con ốc bưu
Mua về bỏ trong lu
Ngâm nước gạo rửa sạch
Cho nhả hết chất dơ
Làm như vậy hai ngày
Một ngày làm hai lần
Cho chất dơ ra hết
Như vậy mới chắc ăn
Qua đến ngày thứ ba
Vớt hết ốc đem ra
Chặt đít cho thủng lổ
Lễ ốc bỏ ruột dơ
Thịt ốc xắt vừa vừa
Lá gừng non, hột gà
Củ hành tỏi bằm nhỏ
Gia vị nêm nếm qua
Trộn chung với thịt giò
Làm sao cho vừa ăn
Lá gừng ngang miệng ốc
Nhét vào đó viên nhân
Ðặt cái xửng lên lò
Nhớ mở lửa cho to
Bỏ ốc vào xửng hấp
Mười lăm phút lấy ra
LẨU LƯƠN
Một kí lô gam lươn
Hai trăm gam bắp chuối
Gia vị, đường, mắm, muối
Ớt hành lá rau om
Bắp chuối bào đem ngâm
Nhớ pha thêm chút dấm
Luộc nước dầm me sống
Rửa sạch sẽ con lươn
Cắt ra từng khúc dài
Xong để cho ráo nước
Ướp vào nửa muỗng muối
Ðổ nước vào trong soong
Cho lươn vào đun sôi
Chút sau bỏ bắp chuối
Khế, hành lá và ớt
Nêm lại cho vừa ăn
Khi dọn thêm rau om
Aên với cơm hoặc bún
Thức ăn dọn trong lẩu
Trên lò than cháy hồng
CÁC MÓN CHAY
Nếu muốn ăn nhẹ nhàng
Không còn có chi bằng
Ăn rau lá hoa quả
Khỏe mạnh thân tráng cường
Các món ăn kể trên
Thế bằng tàu hủ tươi
Thay vì dùng thịt cá
Thử rồi sẽ mê thêm
Khỏi mang tội sát sanh
Vừa bảo đảm yên lành
Ít sanh ra bệnh tật
Mỡ trong máu tan nhanh
CÀ RI CHAY
Một gói bột cà ri
Một muỗng súp bột mì
Ba củ khoai lang bí
Cách làm không có chi
Năm miếng tàu hủ tươi
Thêm nửa trái dừa khô
Vài ba lá tép xả
Hai muỗng bột điều dầu
Dừa vắt nước cốt riêng
Tàu hủ xắt miếng chiên
Khoai lang gọt cắt khúc
Ðể ráo rồi mang chiên
Dầu nóng bỏ hột điều
Xào để lấy nước màu
Chắc nước màu ra chén
Ðổ vào nồi cà ri
Nước dảo dừa nấu sôi
Cho xả, khoai vô nồi
Cho tàu hủ sau chót
Quậy thêm tí bột mì
Nấu mất khoảng hai giờ
Cà ri chấm bánh mì
Hay là ăn với bún
Cay, mặn nồng thơm tho
BÌ CHAY
Năm mươi gam bún tàu
Củ đậu hay củ sắn
Chừng ba củ khoai tây
Thêm một củ cải trắng
Năm miếng tàu hủ chiên
Ðộ một chục tép tỏi
Nếu muốn thêm dừa xiêm
Pha với tàu vị yểu
Bốn muỗng gạo đem rang
Cà nhuyễn ra làm thính
Giá, rau sống dưa leo
Bún luộc là món chính
Gọt vỏ, rửa khoai tây
Mở lửa để chảo nóng
Cho từng nhúm khoai vào
Chiên vàng vớt để ráo
Bún tàu đem chiên vàng
Củ sắn gọt xắt sợi
Xắt sợi tàu hủ chiên
Tỏi đem ra bằm nhỏ
Dừa xiêm cho vào nồi
Nấu đến khi cạn nửa
Cho tàu vị yểu vào
Nêm vừa ăn để nguội
Trộn củ sắn, khoai tây
Tỏi bằm và mắm muối
Tí bột ngọt bún tàu
Nhớ đừng quên rắc thính
Nêm sao cho vừa ăn
Tô sắp bún, rau giá
Kế đến cho thêm bì
Khi ăn chan tương, ớt
CANH KIỂM
Cần khoai môn, khoai lang
Bí đỏ và đậu đủa
Tàu kỷ ky, kim châm
Dừa khô và mướp khía
Ðậu hủ, tai nấm mèo
Bột khoai và đậu phụng
Lá quế và củ gừng
Gia vị với bột khoai
Sửa soạn mất hai giờ
Bột khoai ngâm nước lạnh
Bún tàu ngâm cho mềm
Kim châm ngâm cho nở
Rửa sạch lặt nấm mèo
Tàu hủ ky xé nhỏ
Sau khi đã ngâm mềm
Khoai lang ngâm gọt vỏ
Khoai môn như khoai lang
Bí rợ cũng như thế
Gừng xắt như cọng tăm
Ðậu đủa tướt cắt khúc
Ðậu phộng một nửa rang
Nửa kia ngâm luộc chín
Trước tiên nấu bột khoai
Kế đến là các thứ
Dừa vắt cốt để riêng
Khi tất cả đều chín
Nêm gia vị, cho gừng
Muốn thơm bỏ lá quế
Nhắc xuống bỏ cốt dừa
Khi ăn rắc đậu phọng
Thêm một chút rau tươi
Muốn ngon ăn với bún
GỎI SỨA CHAY
Chừng ba cây mì căn
Dưa chuột và cà rốt
Rau câu, ớt đỏ, chanh
Tàu hủ ky đậu phộng
Bánh tráng nướng, hành tây
Mè, ngò, tàu vị yểu
Bột ngọt, đường, muối, dầu
Cuối cùng đừng quên tỏi
Ðem ngâm nước rau câu
Ðể ráo rồi xắt khúc
Cà rốt xắt giống dưa
Dưa xắt như cọng giá
Mì căn, tàu hủ ky
Cũng xắt sợi như giá
Trước đó nhớ chiên sơ
Ớt đỏ đem xắt sợi
Ðậu phộng phải rang vàng
Sau đó đem đâm nhỏ
Cã rốt dưa trộn chung
Dùng khăn vắt cho ráo
Tất cả đem trộn đều
Nêm muối đường bột ngọt
Làm sao cho vừa ăn
Thêm dầu đã khử tỏi
Lấy dĩa bày gỏi ra
Trên mặt rắc đậu phộng
Và ngò ớt tỉa hoa
Aên với bánh tráng nướng
MẮM THÁI CHAY
Một ký lô dưa leo
Một cây mì căn chín
Ðu đủ, trái thơm to
Chút củ cải muối
Một củ riềng thiệt non
Thêm bốn viên chao đỏ
Gạo ta đem rang vàng
Tán nhuyễn là thành thính
Tỏi bột ngọt, muối đường
Dưa leo nhớ bỏ ruột
Xắt mỏng, bóp vắt khô
Ðu đủ bào gọt mỏng
Xắt sợi như cọng tăm
Trải ra mâm phơi nắng
Trước đó ngâm chút phèn
Mì căn thì xé nhỏ
Ướp tỏi, muối, tiêu, đường
Bắc chảo dầu khử tỏi
Bỏ mì căn vào chiên
Ðem ra để cho nguội
Lấy chao đỏ ướp vào
Củ riềng giả lấy nước
Bỏ xác ra không xài
Củ cải muối ngâm nước
Vắt cho thiệt là khô
Ðem ra thái cho mỏng
Bắt lên bếp chiên vàng
Thơm xắt nhỏ phơi héo
Các thứ được trộn chung
Thêm ớt đỏ thái chỉ
Trộn đều bỏ ve keo
Eùp xuống cho thiệt kỷ
Chỉ cần để qua đêm
Hôm sau là ăn được
Tùy vào cách mình nêm
Ăn ngon tuyệt hết biết
TRÁNG MIỆNG
CHÈ BỐN MÀU
Bốn màu thật rõ ràng
Xanh, đỏ, trắng chêm vàng
Ngó thiệt là hấp dẫn
Ăn nhiều đời cũng tàn
Tại vì sẽ lên cân
Mỡ trong máu không tan
Mất công đi bác sĩ
Không phải chỉ một lần
Nhưng có nhịn được đâu
Ới ly chè bốn màu
Vừa ngọt buì lại béo
Làm một cái hết ào
Ăn rồi mai tính sau
Mắc chi phải lo âu
Ta sẽ tập thể dục
“ Ca lô ri “ đốt mau
02/07/04
CÀ PHÊ BUỔI SÁNG
Vài giọt cà phê thơm
Chút nước sôi nóng bỏng
Khói tỏa như ảo mộng
Muốn ngọt thêm sữa, đường
Ấm buổi sáng lạnh lùng
Bây giờ mới tỉnh ngủ
Hồn trở về chốn cũ
Giật mình ngó đồng hồ
Bụng cứ tiếc ngẩn ngơ
Chạy vội ra rồ máy
Ðã đến giờ cầy cấy
Một ngày mới bắt đầu
CHÈ THƯNG
Vật liệu phải có đủ
Bột bán rồi bột khoai
Hạt sen và mộc nhĩ
Lá dứa và đậu xanh
Ðường và chút xíu muối
Bột khoai, bán đem ngâm
Dừa đem vắt lấy nước
Hột sen ngâm bỏ tim
Lá dứa cắt từng khúc
Hạt sen nấu chín mềm
Ðậu xanh cần hấp chín
Trộn tất cả nấu đều
Ðược nhắc ra khỏi bếp
Cho nước cốt dừa vào
Múc chè ra từng bát
Aên một cái hết ào
CHÈ TÁO XỌN
Nửa ký lô đậu xanh
Va ni và bột năng
Ðường với hai lít nước
Thêm một trái dừa khô
Ðậu xanh ngâm cho mềm
Ðãi vỏ sạch hơi lâu
Dừa vắt nuớc cốt, dão
Hai chén để ra riêng
Nước nấu sôi tan đường
Quậy vào nửa bột năng
Nhớ lược đường tan bụi
Trộn va ni cho thơm
Lấy xửng hấp đậu xanh
Cho vào nồi nước đường
Thấy sền sệt là được
Chan nước cốt dừa lên
CHÈ TRÔI NƯỚC
Năm mươi gam bột năng
Nửa ký lô bột nếp
Nửa ký lô đậu xanh
Tám trăm gam đường thẻ
Nửa ký lô dừa khô
Mè rang hoặc đậu phọng
Nhớ không thể thiếu gừng
Là xem như hổng đặng
Ðậu xanh đem ngâm mềm
Rồi mang ra đãi vỏ
Mè hay đậu rang vàng
Dừa khô vắt nước cốt
Ðậu nấu chung nước dừa
Rồi đem xay cho nhuyễn
Vo lại để làm nhân
Ðừng khô quá phải mướt
Bột năng đổ ra tô
Ðể làm vỏ bột nếp
Dùng nước sôi chế vô
Nhồi đến khi bột dẻo
Phân bột ra từng viên
Nặn cho mỏng miếng bột
Vo thành từng viên tròn
Khi nhân đã bỏ giữa
Ðặt một nồi nước sôi
Dành để mà luộc bánh
Thả từng chiếc bánh vào
Ðừng để cho bị dính
Vớt bánh ra cho mau
Khi thấy nổi trên mặt
Cho vào nồi nước đường
Như vậy là đã chin
Nhớ đừng quên thả gừng
Chan nước đường ngập bánh
Chan nước dừa sau cùng
Chè ăn thơm và mát
MỘT TUẦN ĂN THỨC ĂN NGOẠI QUỐC
Thứ hai ăn “ hăm bơ gơ” (hamburger)
Thứ ba “ hót đót” chiên bơ kẹp mì (hot dog)
Thứ tư ăn “ spa ghét ti” (spagetti)
Tráng miệng thêm miếng “ cúc kì “ cũng no (cookie)
Thứ năm ăn “ bờ ri tô “ (burrito)
Thứ sáu đồ Mễ, “ ta cô “ nữa à (taco)
Thứ bảy ăn “ là xa nhà” (lasagna)
Chao ơi ớn nổi da gà rồi đây
Chủ nhật đi ăn đồ Tây
Mà sao chán ngấy thế này Trời ơi
Aên thêm một bửa nữa thôi
Chẳng thà nhịn đói chết toi cho rồi
MỘT TUẦN ĂN THỨC ĂN VIỆT NAM
Thứ hai buổi sáng phở bò
Buổi trưa dùng đở bò kho bánh mì
Tối thì ăn bún cà ri
Thứ ba buổi sáng có mì
Hay là hủ tiếu lạ kỳ thơm tho
Buổi trưa vài cuốn chả giò
Ðể dành bụng tối ăn cho no lòng
Có thể ta ăn cơm phần
Cá kho, xào, mặn, rau tần nấu canh
Thứ tư buổi sáng ăn nhanh
Chắc bụng dùng xôi đậu xanh muối mè
Buổi trưa bánh mì ba tê
Gọi thêm tráng miệng ly chè bà ba
Tối về ăn cơm ăn với gà
Chiên, kho, hấp muối hay là nấu chao
Thứ năm hủ tiếu mì xào
Buổi sáng ăn vậy khó mà xuống cân
Trưa dùng tạm cơm tay cầm
Bánh mì thịt nguội, giò bì chả chiên
Tối về ăn mì vịt tiềm
Thứ sáu ngủ dậy lại tìm gì ăn
Loanh quanh luẩn quẩn lăng xăng
Ba chuyện ăn uống lằêng nhằng đì ta
Aên nhẹ hột gà ốp la
Ðợi trưa gọi món cơm gà siu siu
Chiều về ăn tộ bún riêu
Thứ bảy rảnh rỗi giờ nhiều nấu ăn
Ngồi đổ bánh cuốn kẹp nhân
Làm thêm hai món bún thang, cháo lòng
Chủ nhật tưởng được ở không
Bạn mời chả cá Thăng Long đi liền
Không giờ thể dục mới phiền
Lên cân vùn vụt hết tiền vì …… tham ăn
CÁC MÓN ĂN THAY THUỐC
LÁ LỐT xào với thịt bò
Tác dụng: chữa tê thấp
Ðau xương, tay, cẳng giò
Ðầy bụng,.... rất hấp dẫn
Toa thuốc có thịt LƯƠN
Ðể trị bịnh đau thận
Thịt cóc thì ăn ngon
Chữa da bủng, lớn chậm (cho trẻ em)
Muốn cơ thể dẻo dai
Mau mau ăn thịt RẮN
Nhức đau lưng dài dài
Sinh lực tăng chắc chắn
DIẾP CÁ có vị chua
Ăn nhiều trị bệnh trĩ
Có tánh ẩm, hơi the
Giải nhiệt độc, ghẻ lở
HẠT SEN để nấu chè
Có khi dùng làm mứt
Là vị thuốc bổ tì
Trị thần kinh suy nhược
Trái BÍ rợ khi ăn
Ta lấy hột để lại
Thơm ngon khi rang vàng
Ăn trị bịnh sán laỉ
Làm bánh hay nấu xôi
Người ta hay dùng NẾP
Bao tử muốn hết đau
Ăn cơm nếp sẽ khỏi
Có ai biết TÍA TÔ
Chữa nhức đầu, tức ngực
Làm cho ra mồ hôi
Nôn mửa và cảm sốt
Gia vị đuợc dùng nhiều
Phải kể đến HÀNH LÁ
Chữa trúng phong, nhức đầu
Thương hàn và khí độc
Bị cảm cúm nhức đầu
Người ta dùng lá sả
Giúp tiêu hóa thông hơi
Ngoài việc ướp thịt cá
GIÁ sống nấu canh chua
Ăn kèm hủ tiếu, phở
Nhưng khi bị ho khan
Chưng giá sống trong nước
Bỏ chung với đường phèn
Ăn cả nước lẫn cái
Sẽ hết tắt tiếng ngay
Bởi giá có tính mát
HẸ vị cay hơi chua
Mùi hăng và tính ấm
Ăn cầm máu, tiêu đờm
Trị cơn ho suyễn nặng
Khó thở vì bị đờm
Lấy hẹ đem giã nát
Vắt nước uống hết liền
Trị luôn mồ hôi trộm
GỪNG thường được dùng tươi
Xắt lát hoặc vắt nước
Tính ấm, thơm, vị cay
Ấm bụng trừ đờm lạnh
TỎI tính nóng vị cay
Lợi tiểu, tiêu ung nhọt
Trị luôn ho có đờm
Sát trùng, trị cảm cúm
ÐẬU XANH vị ngọt mùi tanh
Uống vào thanh nhiệt giải nhanh bệnh tình
Nấu chín: trị sốt, nhiệt ly
Ngâm nước, giã nát uống thì mát ngay
MƯỚP ÐẮNG hay KHỔ QUA
Tính lạnh và vị đắng
Ăn giải nhiệt, giảm đau
Thanh tâm và sáng mắt
Dùng lá và quả xanh
Khi chín ta lấy hột
Bổ khí và tráng dương
Vị đắng mà tính ấm
Lá dùng trị vết thuơng
Trĩ đau hay rắn cắn
Giã hạt đắp bên ngoài
Trị yết hầu, nhiễm độc
Bổ nhất là MẬT ONG
Ðau bao tử, lao phổi
Hoặc hoà với nước gừng
Uống sẽ hết nấc cục
ÐẬU ÐỎ hột phơi khô
Có thể đem dùng sống
Hoặc đem nó rang qua
Tính bình vị hơi ngọt
Ung nhọt muốn cho tan
Tán đậu đỏ hòa nước
Ðổ thêm chút dấm vào
Ðắp vết thương, hút mủ
RAU LANG lá, củ, dùng
Nhuận tràng bổ tỳ vị
Vị ngọt tính cũng bình
Chính là trị táo bón
(lá luộc, củ nấu ăn)
Tài liệu tham khảo: Cẩm nang các món ăn thay thuốc
Cuả Thanh Thanh
ALL YOU CAN EAT
Bồi bàn đi đâu vắng
Tui nấu kiêm chạy bàn
Mệt thiếu điều đứt thắng
Nên long thể bất an
Tính đổi tên quán ăn
Bán toàn rau lăng nhăng
Gọi ‘Oân Du can ít” (all you can eat)
Khỏi cần mướn bồi bàn
Các món ăn bày ra
Nào xà, lách, quả, hoa
Nấm, đậu ve, bắp cải
Ðủ loại rau và cà
Món này Mỹ ăn nhiều
Nhẹ nhàng lại mau tiêu
Dành cho người “ đai ếch” (diet)
Nấu nướng khỏe đủ điều
NHỮNG MÓN ĂN TỪ TRÁI CÀ CHUA
cà chua trái xanh dòn
rửa sạch ăn trông ngon
cắt dày dày từng miếng
chấm mắm ruốt, tỏI, đường
hoặc là:
muốn ăn cơm thêm ngon
cùng các loại rau thơm
trộn cà chua xắt mỏng
chấm với cá thịt kho
hoặc là:
cà chua rửa bỏ cuống
cắt nhỏ bỏ vào nồI
nhớ thêm một chút nước
lửa nhỏ nấu mềm, sôI
để nguội đem xay nhuyễn
rồi đem lược qua rây
bỏ phần hột và vỏ
có thể dùng được ngay
muốn ngon phi hành tỏi
cho cà đã lược vào
nêm nếm theo khẩu vị
nấu sôi lần nữa nào
để cho đến khi nguội
đổ thêm một lớp dầu
lấy nắp đậy thật kín
mới giữ được dàI lâu
hoặc là:
chọn cà chua lớn trái
cơm dày và trái tròn
ba trăm gam thác lác
tỏI, gia vị và ngò
tỏI lột vỏ xắt nhuyễn
cho nạt cá vào tô
trộn tỏI tiêu, gia vi.
trộn đều thấm mới ngon
cà chua đem rửa sạch
xẻ ngang ra làm hai
móc bỏ ruột làm sốt
ruột này nhớ lượt rây
cà đã móc bỏ ruột
nhồI cá cho vun đầy
làm sao cho đẹp mắt
nhớ ém cho chặt tay
bắc chảo dầu lên bếp
đợi cho dầu nóng, sôI
phần nạc cá úp xuống
chiên cho vàng trở ngay
chín rồI gắp ra đĩa
phần nạt bỏ lên trên
kế đến là đổ xốt
sắp ngò và rắc tiêu
nếu không muốn dùng cá
có thể thay thịt heo
đem về cũng bầm nhuyễn
hoặc có thể dùng tôm
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT121 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT115 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
Áo sơ mi – Kiểu áo đẹp không thể thiếu trong tủ đồ công sở Áo sơ mi là một trong những kiểu áo phổ biến và cổ điển không thể thiếu trong tủ đồ công sở. Với thiết kế đơn giản và trang nhã, áo sơ mi không chỉ tạo nên vẻ lịch sự mà còn mang đến sự chuyên nghiệp và tinh tế cho người mặc. Một trong những lợi ích của áo sơ mi là tính đa dạng về kiểu dáng và chất liệu. Người mặc có thể dễ dàng lựa chọn áo sơ mi dài tay, áo sơ mi ngắn tay hay áo sơ mi 3/4 tay tùy sở thích và mục đích sử dụng. Chất liệu vải của áo sơ mi cũng rất đa dạng, từ cotton thông thường cho đến vải tơ, lụa, hay ren, điều này tạo nên sự linh hoạt và lựa chọn cho người mặc. Áo sơ mi có thể được kết hợp với nhiều kiểu trang phục khác nhau để tạo nên phong cách khác nhau. Người mặc có thể kết hợp áo sơ mi với quần âu, váy công sở hoặc chân váy để tạo nên vẻ ngoài chuyên nghiệp và lịch sự. Nếu muốn thêm phần trẻ trung và năng động, người mặc có thể mix áo sơ mi với quần jean hoặc quần chinos. Một ưu điểm nữa của áo sơ mi là phù hợp với mọi hoàn cảnh. Đi làm, hẹn hò hay dự tiệc, sơ mi đều là lựa chọn tuyệt vời. Nếu bạn muốn tạo nên phong cách trang trọng và phá cách, bạn có thể chọn áo sơ mi có kiểu dáng đặc biệt, đính kèm hoa văn hay họa tiết độc đáo. Đối với những buổi gặp gỡ bạn bè, bạn có thể chọn áo sơ mi có màu sắc nổi bật và họa tiết ngộ nghĩnh để tạo sự cá tính và sáng tạo. Không chỉ phù hợp với nhiều hoàn cảnh, sơ mi mà còn giúp bạn tôn lên vóc dáng và gương mặt. Áo sơ mi có kiểu dáng đứng, cổ tròn và tay dài giúp tôn lên ngực và dáng của người mặc, trong khi áo sơ mi cổ chữ V và tay ngắn có thể làm khuôn cho mặt trông nhỏ và cuốn hút hơn. Trên thị trường hiện nay, có rất nhiều thương hiệu và kiểu dáng áo sơ mi khác nhau để bạn lựa chọn. Để chọn được chiếc áo sơ mi đẹp và phù hợp với mình, cần lưu ý đến chất liệu vải, kiểu dáng cổ, tay áo và màu sắc. Ngoài ra, đừng quên kiểm tra kỹ về kích thước áo để tránh mua phải áo quá chật hoặc quá rộng. Cuối cùng, sơ mi là kiểu áo không thể thiếu trong tủ đồ công sở. Với sự đa dạng về kiểu dáng và chất liệu cùng tính linh hoạt trong mix đồ, sơ mi giúp bạn tạo nên phong cách chuyên nghiệp, lịch sự và tinh tế. Hãy chọn cho mình một chiếc áo sơ mi yêu thích và khám phá vẻ đẹp của loại áo này trong cuộc sống hàng ngày.
Tìm Hiểu: phối đồ với áo dạ nam
#phối_đồ_với_áo_dạ_nam, #ThếGiớiThờiTrang, #Thế_Giới_Thời_Trang, #thegioithoitrang, #thegioithoitrang, #kiểuáođẹp, #kiểu_áo_đẹp"
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT119 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
Rau dừa nước Ludwigia adscendens
Mô tả: Cây thảo mọc bò, nổi trên mặt nước nhờ có phao xốp màu trắng. Thân mềm, xốp có rễ ở các mấu. Lá hình bầu dục, mọc so le. Hoa trắng, có cuống dài, mọc ở nách lá. Quả nang dài, có lông nhỏ, chứa nhiều hạt.
Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Ludwigiae Adscendentis.
Nơi sống và thu hái: Loài liên nhiệt đới, mọc hoang và cũng được trồng ở các ruộng nước, ao hồ, đầm nước, nương rạch. Lá và ngọn non thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu, dùng tươi hay thái nhỏ phơi khô dùng dần.
Thành phần hoá học: Trong thân, lá có flavon và tanin.
Tính vị, tác dụng: Rau dừa nước có vị ngọt nhạt, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt giải độc lợi tiểu, tiêu thũng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa: 1. Cảm mạo, phát sốt, ho, ho khan; 2. Bệnh sởi không suy sụp hoàn toàn; 3. Giảm niệu.
Dùng ngoài trị đinh nhọt và viêm mủ da, áp xe vú, viêm tuyến mang tai, bệnh zona, eczema, viêm da, rắn độc cắn.
Ngày dùng 15-30g dạng thuốc sắc. Cũng dùng tươi làm thuốc đắp, hoặc nghiền cây khô lấy bột dùng ngoài.
Ðơn thuốc:
1. Cảm sốt, ho khan, đái són, đái gắt, nước tiểu vàng hay đỏ, 30g rau dừa nước sắc uống.
2. Ðái ra dưỡng trấp, viêm cầu thận cấp và các loại đái đục: 30-40g rau dừa nước sắc nước uống, dùng riêng hoặc phối hợp với Tua rễ da (lấy phần non của rễ mọc phụ sinh từ cành) 20-30g tỳ giải 15-20g. Dùng 5-7 thang thì khỏi.
3. Sốt kéo dài sau bệnh sởi: Rau dừa nước tươi 30-60g chiết dịch và dùng uống sau khi đã hấp.
4. Giảm niệu: Rau dừa nước tươi 30g, đường 15g, nấu nước và dùng hai lần trước bữa ăn.
5. Bị thương phần mềm, ứ máu sưng tấy hoặc mụn nhọt đơn độc sưng lở: Rau dừa nước giã nhỏ, chế ít giấm, đắp chỗ đau, lại dùng rau dừa nước và vỏ cây Gạo (lấy lớp trắng ở trong) mỗi vị 30g sắc uống.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT114 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT116 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT118 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT120 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT112 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT111 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT122 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT117 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
via
Quán Tự Tại là ai? Danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Quán Tự Tại hay Quán Âm Tự Tại là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tự tại ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân dã tự tự, đạt được thành tựu. Chỉ cần tâm mình tự tại thì tất cả mọi cảnh giới tất sẽ tự tại, mọi sự lý tự nhiên sẽ trở thành tự tại mà thôi. Đứng trước nhân ngã, thị phi bạn giữ được thân tâm tự tại? Đứng trước danh lợi phú quý chúng ta vẫn bảo trì được tâm an tĩnh, tự tại? Hoặc đứng trước sinh, lão, bệnh, tử, liệu chúng ta có giữ vững được tâm thái an nhiên tự tại?
Trong cuộc sống nếu tâm trí chúng ta không thướng tồn an tĩnh, tự tại, thì cho dù sự nghiệp có nhiều tiền của cũng chỉ là gia tăng thêm sự trói buộc mà thôi. Lại nữa nếu đứng trước 8 ngọn gió: tán dương ca tụng, hiềm khích, hủy báng, danh dự, lợi dưỡng, suy tàn khổ đau và khoái lạc độc hại kia lốc thổi mà tâm ta vẫn không bị lay động thì chúng ta đã thành tựu được đức hạnh tự tại.
Ý nghĩa thờ Phật Bà Quán Âm Tự Tại
Tượng Phật Bồ Tát bao giờ cũng tạc theo hình tượng biểu diễn của các Ngài. Do vậy, khác với hình tượng Phật Bà Quan Âm thông thường, hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát là thể hiện được tâm thế tự tại lúc tu hành của Bồ Tát. Sự tự tại này thể hiện qua khuôn mặt, quan dáng ngồi, dáng đứng, các cảnh vật xung quanh.
Khi nhìn vào tượng Quán Âm Tự Tại, ai ai cũng có thể cảm nhận được sự ung dung, tự do tự tại và hết sức nhẹ nhàng của Ngài. Nhìn vào đó, người tu hành cũng cảm ngộ được sự tự tại khi tu hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát. Khi chúng ta thờ tượng Quán Âm Tự Tại, chính là chúng ta mang đến một biểu pháp vô cùng tốt đối với người chiêm bái tượng của Ngài, cũng như luôn nhắc nhở chúng ta tu hành. Khi chiêm bái tượng của Ngài, chúng ta phải luôn tự phản tỉnh trong cuộc sống phải tu hành như thế nào? Là phải luôn luôn quán sát, luôn luôn soi vào chính mình, như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chính là trong cuộc sống hàng ngày, việc đầu tiên mà một người tu hành cần làm là không nhìn lỗi thế gian, không chấp trước lỗi thế gian. Mà là tự soi chiếu vào bản thân mình, xem lỗi mình ở đâu và sửa đổi.
>>>>Xem Thêm:Tượng Quán Âm Tự Tại
Lâu dần sẽ đạt được trình độ “ngũ uẩn giai không” – khi đó, thực sự cuộc sống sẽ có được sự tự tại, như Kinh nói “độ nhất thiết khổ ách”. Hiểu được ý nghĩa của tượng Quán Tự Tại rồi thì chúng ta thờ phụng Ngài sẽ rất có ý nghĩa.
Ý NGHĨA 33 ỨNG HÓA THÂN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện pháp tướng vô số vô biên không thể nghĩ bàn, ứng theo vô số cơ duyên, tùy theo thời gian, xứ sở khác nhau, biến hóa vô lượng thân hình, tuyên thuyết vô số giáo pháp, cứu hộ từng chúng sanh. Do đó, theo khả năng quán sát thành kính của tín ngưỡng này, khi đảnh lễ chiêm ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn sẽ có người ban ân huệ cho ta, hoặc đó là bậc hiền giả đời này, ngay cả cha mẹ, sư trưởng điều phải nên xem là Quán Thế Âm Bồ Tát để chúng ta lễ bái; tín ngưỡng người hiền, người trí, trời người, quỷ thần, hết thảy sức uy thần nơi họ điều là ứng hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong các ứng hóa thân tồn tại này có Phạm thiên, có Tự tại thiên, có nữ thần Chuẩn Đề, có quỷ Dạ Xoa, cho nên 6 Quán thiên, 7 Quán Thế Âm, 8 Quán tự tại, 15 tôn Quán Âm, những con số này càng ngày càng gia tăng, dần dần biến thành 33 hình thể Quán Âm.
Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, tay phải cầm cành dương liễu là đặc trưng của tượng này. Bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh là bổn nguyện của Ngài. Do đó, trong kinh có đoạn: “Nếu muốn trừ các bệnh trên thân, cần phải tu tập được pháp cành dương liễu”. Tượng Quán tự tại Dược vương tướng hảo trang nghiêm, tay phải cầm cành dương liễu, lộ lòng bàn tay trái ở trước ngực trái. Vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương, dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Tượng Bồ Tát Quán Âm lưu hành ở thế gian thì tay phải cầm cành dương liễu hoặc là cắm trong bình bên phải tòa vị, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá bên dòng nước, thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
Long Đầu Quán Âm: là Quán Âm cưỡi trên đầu rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát. Từ xưa đến nay, người Ấn Độ rất tôn kính loài rồng (nàga), là bậc trưởng thượng nơi này được gọi là Long Vương hoặc Long thần, nên mọi người rất coi trọng sức mạnh của loài rồng. Họ cho rằng: “Đại Long vương từ biển lớn vọt lên trổi mây lớn trùm khắp hư không, phóng ánh sáng lớn như điện chớp, chiếu sáng trời đất, trút trận mưa lớn, làm thấm nhuần muôn vật”. Trong thần thoại Ấn Độ, rồng là tượng bán thân mặt người đuôi rắn, sống ở dưới đất hoặc ở núi Phổ-đà-lạc (Potala). Trong số ấy, có tám Đại long vương nghe Phật thuyết pháp, làm ngoại hộ cho Phật pháp. Nhờ tư tưởng này mà sinh ra ý tưởng Quán Âm cưỡi đầu rồng cũng là lẽ đương nhiên. Bức tượng họa Quán Âm cưỡi đàu rồng mà dân gian lưu truyền thường ngồi kiết già trên thân rồng gần áng mây hoặc là đứng trên thân rồng.
Trì Kinh Quán Âm: chính là Quán Âm Thanh văn (sràvaka). Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà xuất gia, tượng cầm quyển kinh là sắc thái đặc biệt của Ngài. Phẩm Phổ môn ghi: “Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường, tay phải Ngài cầm quyển kinh ngồi trên tảng đá, tay trái đặt lên đầu gối là sắc thái đặc tưng của tượng này.
Viên Quang Quán Âm: chính là tình thương tròn đầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, với lòng từ ái viên mãn, được biểu trưng bằng ánh quang minh quanh thân. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có đoạn: “Sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp. Hình tượng được họa vẽ trong Phật tượng đồ vựng đệ nhất, sau lưng có ánh sáng quần lửa, ngồi đoan nghiêm trên tảng đá là nét đặc trưng của tượng này.
Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh, hình tượng ngồi trên mây, đầu gối trái dựng thẳng, tay phải chống đỡ thân mình là nét đặc trưng của tượng này.
Bạch Y Quán Âm (pàndaravasinì): còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu, Đại Bạch Y Quán Âm, Liên Hoa Bộ Mẫu của Mạn-đồ-la thai tạng giới, mật hiệu là Ly cấu kim cương. Thân hình Ngài màu trắng vàng, mặc áo trắng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, đầu dội mũ kết bằng tóc, tay trái cầm hoa sen nở màu trắng, lòng bàn tay phải hướng ra ngoài, năm ngón duỗi thẳng, kết ấn Dữ Nguyện. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái tôn tượng Quán Âm Bạch Y là để cầu nguyện tiêu trừ tai ách, kéo dài tuổi thọ, gọi là “Bạch Y Quán Âm” pháp hoặc là “Bạch xứ Tôn pháp”. Thất diệu nhương tai quyết có nói: “Nếu ai nương theo pháp này mà niệm tụng, tất cả tai nạn tự nhiên tiêu tan; tụng chân ngôn này, tát cả những điều không tốt lành sẽ trở nên tốt lành”.
Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện với tư thế ngồi nghiêng trên lá sen. Phẩm Phổ môn so sánh thân Bồ Tát với thân tiểu vương nên lấy thân tôn quý của bậc tiểu vương ngồi nghiêng trên hoa sen để làm thí dụ. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh là nét biểu trưng của tượng này.
Lũng Kiến Quán Âm: còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tựa núi đá nhìn dòng thác chảy xiết bên phải, nhưng tâm tư của Ngài như tinh thần của dòng nước. Tượng này biểu thị lời kinh trong phẩm Phổ môn; “Giả sử khởi lòng hại, xô rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán âm hầm lử biến thành ao”.
Thí Dược Quán Âm: là đức Quán âm ban cho thuốc hay chữa trị bệnh khổ về thân và tâm của chúng sanh. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ. Tượng này ngồi trên tảng đá bên cạnh dòng nước, tay phải chống gò má, tay trái chống bên hông, mắt chăm chú nhìn hoa sen là nét đặc trưng của tượng này.
Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá (giỏ bằng trúc) và nhánh lá, hay còn gọi là Quán Âm Trúc lộc ly. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông. Hình tượng Quán Âm tay trái cầm giỏ cá đứng trên sông là nét đặc trưng của hình tượng này.
Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ tể trong cõi trời sắc giới, phước đức ưu việt, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng ngồi trên tảng đá, tay phải cầm chiếc lá xanh, tay trái đặt trên đầu gối là nét đặc trưng của hình tượng này.
Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát, Mật giáo chỉ gọi là Thủy Cát Tường Bồ Tát (Daka-srì), mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cương, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên tòa sen tại đỉnh núi đá nổi giữ đại dương, tay trái cầm búp sen, tay phải kiết ấn Thí vô úy, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng hoặc tay đưa xuống có dòng nước tuôn ra. Đức Quán Âm được họa trong Phật tượng đồ vựng mang hình tướng đứng trên cánh sen, nổi trên biển lớn, nhìn ngắm dòng nước. Tượng trong Phật tượng sao[Đồ tượng sao, quyển 7 – Thủy Nguyệt Quán Âm] miêu tả ngồi trên đá trong biển lớn, chân trái duỗi xuống, đầu gối chân phải vắt chéo lên trên , mặt hơi ngước lên, thể hiện tướng tư duy. Đây là 2 hình tượng tiêu biểu của ứng hóa thân này.
Nhất Diệp Quán Âm: là tượng Quán Âm ngồi trên một lá sen nổi trên mặt nước. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn”. hình tượng được hội họa trong Phật tượng đồ vựng cho thấy Ngài ngồi trên chiếc lá, đâu gối trái dựng thẳng, tay phải duỗi xuống đỡ thân hình, mắt nhìn xa xăm trên dòng nước, thể hiện tướng trầm tư suy tưởng đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
Thanh Cảnh Quán Âm: có thuyết gọi là Quán Âm Thanh đỉnh. Thanh Cảnh (nìla-kantha), tức một trong những tên gọi của thần Thấp-bà (s’iva), có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài được hội họa trong Phật tượng đồ vựng, quyển 2, là tay trái cầm chày kim cang (vajira) thể hiện uy lực để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên tảng đá.
Diên Mạng Quán Âm: là đức Quán Âm mang lý tưởng kéo dài mạng sống và trường thọ cho chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “Nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Do có năng lưc trừ được tác hại của lời nguyền rủa và thuốc độc thêm tuổi thọ nên ngài có danh hiệu này. Hình tượng của Ngài trên đỉnh đầu mũ báu lớn, tướng tốt từ bi nhu hòa, nguyệt luân hình hoa sen sáng soi trùm khắp, thân đeo chuỗi ngọc, tóc đẹp và mặc thiên y trang nghiêm, hai mươi cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh là nét đặc trưng của tượng này.
Chúng Bảo Quán Âm: là Đức Quán Âm mang thân trưởng giả, hình tượng Quán Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn; “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu các vật báu như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… đi vào trong biển lớn. Giả sử bị gió dữ thổi thuyền buồm người ấy trôi dạt nơi nước quỷ la-sát, trong ấy nếu có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người ấy điều được giải thoát khỏi nạn quỷ la-sát”. Hình tượng Ngài ngồi trên tảng đá, chân phải duỗi thẳng, đầu gối trái sựng thẳng, tay phải thỏng chạm đất, hình tướng này của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trong hang đá. Phẩm Phổ môn có đoạn: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều loài rắn và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm thị hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi tĩnh tọa đoan nghiêm nơi hang đá, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng để cứu độ và hộ trì chúng sanh.
Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cứu tế, thủ hộ những người gặp nạn khiến họ được được an ổn. Trong phẩm Phổ môn ghi rằng; “Người trôi dạt biển lớn các nạn biển cá rồng, sức niệm Quán Âm kia, sóng ngòi chẳng chìm đặng”. Là nói đến Quán Thế Âm Bồ tát thủ hộ người dân trên biển. Hình tượng ngồi trên tảng đá bên bờ biển, hai tay đặt trên mỏm đá của Ngài biểu hiện tướng vắng lặng.
A Nậu Quán Âm (Anu): là đức Quán Thế Âm Bồ tát ngồi đoan nghiêm trên bệ đá ngắm nhìn biển lớn. Thệ nguyện của Ngài trong phẩm Phổ Môn: “Ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
A-ma-đề Quán Âm (Abhettì): Còn có tên gọi khác là Quan Âm A-ma-lai, Quán Âm Vô úy, Quán Âm Khoang quảng. Nghi quỹ ghi: “Mặc dù phạm năm trọng tội vô gián, nhưng tinh tấn trong hai ngày hai đêm chuyên cần tụng niệm thì liền được thấy tôn tướng của Bồ Tát, huống gì người vốn thanh tịnh, cho đến các nguyện đầy đủ, mọi người kính mến, được túc mệnh trí, chứng thập địa, tam muội hiện tiền”. Mọi người tin rằng, Ngài sẽ vào địa ngục cứu độ chúng sinh, giải thoát khổ não, cho nên biết được vị Bồ Tát này có sức úy thần rất lớn. Hình tượng của Ngài mang màu sắc trắng, có ba mắt bốn tay, cưỡi sư tử trắng, tướng tốt trang nghiêm. Hai tay trái phải cầm đàn không hầu chim phượng ba đầu, tay trái thứ hai cầm ma-yết (makara, cá kình), tay thứ hai bên phải cầm chim cát tường màu trắng, co chân trái đặt trên đỉnh đầu sư tử, chân phải buông xuống, quanh thân có hào quang, khắp thiên y chuỗi ngọc, diện mạo tròn đầy vẻ từ bi.
Diệp Y Quán Âm (Parana-s’varì): là đức Quán Âm mặc áo lá sen, phối với mé phí đông Mạn-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Dị hành kim cương. Theo Kinh Diệp y Quán tự tại Bồ Tát thì hình tượng Ngài hiện thân Thiên nữ, đội mũ báu, trên mũ an trí Phật Vô lượng thọ. Dùng chuỗi ngọc và vòng xuyến trang sức, quần lửa vây quanh, toàn thân tỏa sáng. Tượng gồm có bốn tay, tay phải để trước ngực, cầm quả cát tường; tay thứ hai kết ấn Thí nguyện; tay trái thứ nhất cầm búa, tay thứ hai nắm quyển sách, ngồi trên hoa sen. Khi mọi người tôn Bồ Tát này làm bổn tôn, không những cầu nguyện để tiêu trừ bệnh tật, dịch gia súc gia cầm, giặc cướp, lúa màu, côn trùng,… mà còn tu tập để cầu đảo không bệnh tật, sống trường thọ, gọi là pháp tu Quán Âm Diệp y. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
Lưu Ly Quán Âm (Vaidùrya): còn gọi là Cao Vương Quán Âm. Theo kinh Cao Vương Quán Âm, vị Bồ Tát này cứu các khổ ách cho chúng sanh, khi lâm nạn ách bất chợt, nếu tụng kinh này một ngàn biến thì người mất sống lại. Tương truyền vào thời Bắc Ngụy (534-537), dũng sĩ Định Châu là Tôn Kính Đức làm thái thú trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ và lễ bái hằng ngày. Sau đó Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh, ba lần thay dao thì ba lần dao gãy, da thịt chẳng tổn hại, quan xử trảm thấy lạ nên cho miễn tội chết. Tôn Kính Đức quay về lễ bái tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, thì thấy trên dỉnh đầu tượng ba dấu vết chém vẫn còn. Trong giấc mộng Tôn Kính Đức được vị Sa-môn trao cho kinh này, gọi là Cao vương Quán Âm, còn gọi là kinh Diên mệnh thập cú Quán Âm, lưu hành rộng rãi ở nhân gian. Hình tượng của Ngài hai tay cầm bình lưu ly, đứng trên cánh sen với tư thế vân du giáo hóa vùng sông nước.
Đa La Quán Âm (Tà-rà): còn một tên gọi nữa là “Đa-la tôn”. Còn gọi là Quán Âm cứu độ mẫu, an trí ở phương Tây mạ-đồ-la Thai tạng giới, mật hiệu là Hạnh nguyện kim cương, hoặc Bi sinh kim cương. Theo kinh nói: “Bồ Tát này vào tam muội phổ quang minh đa-la, dùng sức tam muội, từ đồng tử mắt phải trên khuôn mặt tròn của Ngài phóng ánh sáng lớn, theo luồng ánh sáng tuôn ra xuất hiện hình phụ nữ xinh đẹp, an trú ở tam muội diệu sắc thù thắng, trang nghiêm thân thể bằng các châu báu vô giá, sáng ngời sắc vàng ròng chiếu vào lưu ly báu, gọi là thành tựu điều tốt lành của mật ngôn thế gian và xuất thế gian, có khả năng trừ diệt khổ vô số khổ não chúng sanh, cũng có thể khiến chúng sanh hoan hỷ, biến nhập tự tính pháp giới của Chư Phật”. Ấn khế của Ngài dùng hai ngón định (ngón trỏ) và tuệ (ngón cái), hướng vào trong năm luân thành quyền, nâng hai ngón phong (ngón trỏ) lên như ngọn núi nhọn, lại thêm hai hư không luân (ngón cái), ấy gọi là Đà-la tôn ấn. Hình tượng Ngài màu trắng xanh, tướng trạng như người phụ nữ, mĩm cười, mặc áo trắng tinh, khi hiệp chưởng trong lòng bàn tay cầm hoa sen xanh; toàn thân tỏa hào quang tròn đầy, trên đầu có búi tóc như hình tượng của búi tóc Chư Thiên.
Cáp Lợi Quán Âm: do Bồ Tát ngồi trong võ sò cho nên có tên gọi như thế. Nghiên cứu nguồn gốc của tượng này, xuất phát từ câu chuyện Đường Văn tông (809-840) thường ăn nghêu sò, dùng tay cạy võ sò nhưng không mở, vua bèn đốt hương cầu nguyện, bỗng nhiên hiện thành hình tượng vị đại sĩ. Đường Văn Tông mời thiền sư Duy Chính núi Chung Nam hỏi duyên cớ vì sao, thiền sư đáp: “vật này linh ấn là chỉ vì lòng tin của bệ hạ roohnj lớn:. Kinh dạy: “Đáng dùng thân nào được độ thoát, tức liền hiện thân ấy mà nói pháp cho họ”. Vua nói: “Đại sĩ xuất hiện, nhưng chưa nghe nói pháp”. Thiền sư nói: “Bệ hạ đã nhìn thấy việc này là bình thường hay phi thường? Bệ hạ có tin không?” Thiền sư nói: “Đã thuyết pháp cho bệ hạ rồi đó!” Vua rất lấy làm hoan hỷ, liền ban chiếu cho tất cả các chùa viện trong thiên hạ điều lập tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là nguồn gốc của tượng Quán Âm Cáp Lợi.
Lục Thời Quán Âm: là đức Bồ Tát từ sáng sớm đến tối mịt, ngày đêm thương xót thủ hộ chúng sinh. Theo Đại Đường Tây Vực ký, quyển 2, nói: Miền Bắc Ấn Độ trước đây, “lục thời là một ngày một đêm”, từ sáng đến tối một ngày được chia thành sáu thời; vả lại, một năm chia thành “tiệm nhiệt thời (mùa nóng nhanh), thịnh nhiệt thời (mùa nóng gắt), vũ thời (mùa mưa), mậu thời (mùa tốt tươi), tiệm hàn thời (mùa se lạnh), thịnh hàn thời (mùa cực lạnh)”, nên một năm cũng gọi là sáu thời. Do đó Quán Âm sáu thời được giải thích thành “Thường thị chúng sanh Quán Âm” (Quán Âm thường dõi mắt theo chúng sanh). Hình tượng lưu hành trong nhân gian thường thấy mang hình giáng đứng, tay cầm Phạn khiếp. Phạn khiếp này là sáu chữ chương cú Đà-la-ni (Án ma ni bát mê hum). Tụng Đà-la-ni này thì được thoát khỏi khổ đau của sáu đường, được sáu diệu môn, chứng sáu căn tương ứng.
Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm. Hình tượng của Ngài, hai tay nắm pháp y rũ xuống phía trước, đứng trên núi. Đại tự tại thiên (Mahes’vara-deva) sáng tạo muôn vật hiện tượng trong ba cõi, uy đức rất lớn, chiếu soi khắp tất cả nên có danh xưng như vậy.
Mã Lang Phụ Quán Âm: Tức Quán Âm vợ chàng họ Mã, ý chỉ cho “Quán Âm phu nhân của Mã Lang”, là tín ngưỡng xuất hiện vào thời Trung Cổ ở Trung Quốc. Năm thứ 12, niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (817), tại bến Kim Sa ở Quảng Tây có một mỹ nữ xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều mà những người con trai đều tranh nhau cưới về làm vợ, nhưng nàng đưa ra điều kiện rằng; “trong một đêm nếu ai đọc thuộc làu được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng”, đến tờ mờ sáng hôm sau có hai mươi tám người đọc tụng thông thuộc. Cô gái nói: “Tôi chỉ có một cái thân này thì làm sao có thể lấy chừng ấy người về làm chồng được”!. Rồi nàng yêu cầu thêm: “Ai có thể thuộc tụng kinh Kim cương trong một đêm thì chấp nhận cho cưới”. Nhưng có đến mười người đọc tụng thông thuộc, nên cô ấy bèn từ chối và hứa với mọi người rằng trong ba ngày mà ai có thể tụng thuộc kinh Pháp hoa thì nàng tổ chức đám cưới. và kết quả là chỉ có một mình người thanh niên họ Mã có khả năng thuộc làu kinh văn, nàng chấp nhận lời hứa và tổ chức cưới hỏi. Nhưng khi vào đến cổng nhà chàng họ Mã để cử hành nghi thức hôn lễ thì nàng đột nhiên ngã bệnh mà mất, thi thể nàng trở nên xinh đẹp lạ thường, thiên hạ ngạc nhiên chưa từng thấy. Trong khoảnh khắc thi thể bỗng trở nên thối rữa, rồi an táng ở Tịnh Ninh. Mấy ngày sau có một lão Tăng đến thăm hỏi nhà, khai quật mộ thì thấy chỉ còn lại xương cốt bằng vàng. Vị Tăng nói: “Đây là bậc Thánh, vì muốn giáo hóa mọi người mà ứng hiện”. Vừa nói dứt lời Ngài bay lên hư không mà biến mất.Hình tượng Quán Âm vợ chàng họ Mã tay phải cầm quyển Kinh Pháp Hoa, tay trái cầm xương người, hình dáng phụ nữ.
Hiệp Chưởng Quán Âm (Vnjali): là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sinh phần nhiều ham ưa dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa dâm dục. Nếu người nhiều sân hận thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa sân hận. Nếu người nhiều ngu si thương cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì lìa ngu si”. Kinh văn dạy chúng ta chắp tay lòng rỗng rang vô niệm thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện hiện trong cảnh giới tam muội. Hình tượng Ngài mặc y trắng chắp tay hiệp chưởng là nét đặc trưng của tượng này.
Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn ghi: “Mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
Bất Nhị Quán Âm: là đức Quán Âm biểu tượng cho Bản tích bất nhị. Phẩm Phổ Môn có câu: “Người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp”. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì vừa là Bản địa môn, vừa là Thùy tích môn, đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài hai tay chấp trì kim cang xử là nét đặc trưng của tượng này.
Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa sen để biểu trưng cho bổn thệc của mình, dùng búp sen nở hoặc đóa sen nở làm vật cầm tay, cũng gọi là Liên Hoa thủ (Padmapàni). Lại lấy hoa sen làm đài, cho nên Ngài có nhân duyên dặc biệt với hoa sen. Hình thượng Quán Âm trì Liên đứng trên lá sen, hai tay nâng một cành hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm là nét đặc trưng của tượng này.
Sái Thủy Quán Âm: Tôn tượng này là vị Bồ Tát tay trái cầm bình đựng nước, tay phải cầm tán tượng (cây gậy được sử dụng sau khi vẩy nước thơm gia trì của Mật giáo), đứng trên mặt đất vẩy nước. Phẩm Phổ Môn có câu: “Thể bi răng như sấm, ý từ diệu mây lành, như mưa pháp cam lộ, diệt trừ lửa phiền não”. Sái thủy là pháp tu vẩy một loại nước thơm, tụng niệm ấn chú, gia trì tịnh hóa. Lấy hương giới thanh tịnh của tính thể hòa hợp với nước từ bi thanh tịnh của tính thể, vẩy khắp tâm địa thanh tịnh của chúng sinh trong pháp giới là biểu thị ý nghĩa vẩy nước. Như vậy, dùng nước vẩy để khai mở Phật tính cho biết hết thảy chúng sinh chính là lời thệ nguyện của Bồ Tát Quán Âm Sái thủy.
Trên đây đã trình bày sơ lược về ba mươi ba đức Quán Âm, trong đó các tôn tượng Quán Âm Bạch y, Thanh Cảnh, A-nậu, A-ma-đề, Đa-la không phải là đức Quán Âm biến hóa của Ấn Độ, mà đại khái là loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ đời Đường về sau tại Trung Hoa.
# Mọi nhu cầu về chế tác tượng thiên thủ thiên nhãn đá các quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay để nhận được báo giá chi tiêt.
Tượng Phật Đá Tín Khôi
Nhận đặt hàng theo mọi yêu cầu của quý khách:
Hotline: 0799 456 152 – 0779 570 560
Website: https://dieukhacdatinkhoi.com/
Fanpage: https://www.facebook.com/profile.php?id=100069876943651
Địa chỉ: Khu làng đá mỹ nghệ Non Nước, khu SX09 lô 17 đường Lương Đắc Bằng, Hòa Hải, Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
# Liên hệ trực tiếp hotline, gửi email hoặc inbox trực tiếp facebook, zalo, viber để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn
Rất hân hạnh được phục vụ quý khách !
Bài viết Tượng Quan Âm Tự Tại – TT110 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Điêu Khắc Đá Tín Khôi.
Dừa -Cocos nucifera L., thuộc họ Cau - Arecaceae.
Mô tả: Cây thân trụ cao tới 20m. Thân nhẵn, có nhiều vết sẹo to do bẹ lá rụng để lại. Lá rất to, có bẹ ôm lấy thân cây và 1 trục mang nhiều lá chét xếp 2 dãy đều đặn ở hai bên. Bông mo (buồng hoa) ở nách lá, lúc đầu ở trong một mo dày, phân nhánh nhiều thành bông, mỗi bông mang hoa đực ở trên và hoa cái ở dưới. Hoa đực có 6 mảnh bao hoa màu vàng, 6 nhị và 1 nhuỵ lép. Hoa cái lớn hơn, có 6 mảnh bao hoa, 3 lá noãn nhưng chỉ có 1 lá noãn phát triển thành quả hạch mang 1 hạt. Quả khô, gồm 3 lớp vỏ, vỏ quả trong là sọ dừa. Hạt to, có nội nhũ đặc biệt gồm phần nước ở trong và phần cứng (cùi dừa ở ngoài).
Bộ phận dùng: Nước dừa, rễ và dầu - Lac, Radix et Oleum Cocoris.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở đảo Andaman (vịnh Bengan Ấn Độ), được trồng rộng rãi ở nông thôn Việt Nam, xung quanh hồ ao mương rạch, lạch sông. Cây mọc khoẻ, ưa đất thoáng dày, ẩm ướt. Ở nước ta, có các giống Dừa quý như Dừa dâu, Dừa ta, Dừa xiêm, Dừa lửa, Dừa lai Maoa, Dừa dâu cho nhiều dầu, có năng suất cao và Dừa lửa nhiều nước là hai giống dừa được trồng nhiều. Dừa có thể thu hái 4 lần mỗi năm, nhưng rộ nhất từ tháng 6 đến tháng 10. Rễ dừa thu hái quanh năm.
Thành phần hoá học: Nước Dừa là một dung dịch đẳng trương gồm chủ yếu là glucose, fructose, rất ít saccarose; ngoài ra còn có các acid hữu cơ (acid malic), các acid amin, các acid béo, vitamin C. Hàm lượng các chất này rất ít, vì tỷ lệ nước trong nước dừa lên tới 92-93%. Cùi Dừa khô, theo tỷ lệ % có nước 3,88, protein nguyên 7,81, lipid 66,26, chất chiết xuất không có nitrozen 13,63, acid lauric 87,27, acid palmitic 2,35, acid oleic 1,18, acid butyric và caprois 0,40. Còn có một lượng nhỏ vitamin D.
Tính vị, tác dụng: Cùi Dừa có vị ngọt, tính bình, có tác dụng ích khí, bổ dưỡng, nhuận tràng và lợi tiểu. Nước Dừa vị ngọt, tính bình, có tác dụng giảm tiêu khát, khỏi thổ huyết, trừ say nắng, làm đen tóc. Vỏ sọ Dừa vị đắng, tính bình có tác dụng cầm chảy máu mũi, ngừng nôn. Vỏ quả dừa có tác dụng làm giảm đau; rễ dùng lợi tiểu, thanh can.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ta thường dùng nước Dừa uống bổ dưỡng và giải khát, còn dùng trị sởi và trị sán xơ mít. Rễ Dừa thay thế các thuốc lợi tiểu, dùng trị bệnh lậu, ho gió, các chứng về gan có vàng da hay không. Cùi dừa thường được sử dụng trong ăn uống vừa bổ dưỡng, giúp cơ thể có thêm chất béo, lại có thể trị phong thấp nhức mỏi. Vỏ sọ Dừa sắc uống cầm chảy máu mũi và ngừng nôn.
Thế giới ngày nay ưa chuộng Dừa vì nó chứa một số acid béo không thay thế trong quá trình đồng hoá thức ăn, cố định men, tham gia dự trữ chất béo của cơ thể. Dầu dừa hay bơ Dừa tạo thành một nhũ tương rất mịn khi gặp mật và dịch tụy nên dễ đồng hoá. Nước Dừa vô trùng dùng làm dịch truyền tĩnh mạch trị ỉa chảy.
Đơn thuốc:
1. Bỏng lửa, bỏng nước sôi, dùng vôi bột 1 chén, dầu Dừa 1 muỗng canh. Đổ vôi vào nước khuấy cho đều, lóng lấy nước trong độ 1 chén, trộn dầu vào, bắc lên bếp chụm lửa riu riu khuấy cho đều tay, chừng thuốc keo lại như thuốc dán lấy ra để nguội dùng bôi vào chỗ bỏng nhiều lần.
2. Chữa bỗng dưng đau tim dùng vỏ sọ Dừa đốt tồn tính, tán nhỏ, uống với rượu, 4-10g với nước nguội.
3. Lở ngứa nhức nhối, gân xương đau nhức, dùng vỏ quả Dừa đốt tồn tính, uống với rượu, 4-10g cho ra mồ hôi thì bớt đau. Cũng có thể dùng vỏ quả dừa sắc nước uống.
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
Thế giới thời trang luôn là nơi hội tụ của các nền văn hóa và ảnh hưởng khác nhau, không ngừng phát triển và thích nghi với các xu hướng và phong cách mới. Trong những năm gần đây, một ảnh hưởng đặc biệt đã tạo nên làn sóng trong ngành công nghiệp thời trang – làn sóng Hallyu của thời trang Hàn Quốc. Thuật ngữ Hallyu, được dịch là "làn sóng Hàn Quốc", đề cập đến sự phổ biến và ảnh hưởng toàn cầu của văn hóa Hàn Quốc, bao gồm âm nhạc, phim ảnh, phim truyền hình và tất nhiên là cả thời trang. Hiện tượng văn hóa này đã thu hút được sự chú ý lớn trên toàn thế giới, từ Châu Á đến Châu Mỹ và hơn thế nữa. Sự trỗi dậy của thời trang Hàn Quốc có thể là do sự thành công to lớn và sự phổ biến rộng rãi của nhạc pop Hàn Quốc, hay K-pop. K-pop không chỉ gây bão trong ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu mà còn cách mạng hóa cách mọi người ăn mặc và thể hiện bản thân. Các nhóm nhạc K-pop như BTS, Blackpink và EXO không chỉ được biết đến với âm nhạc có sức lan tỏa mà còn bởi phong cách hoàn hảo và hình ảnh thời thượng. Điều làm nên sự khác biệt của thời trang Hàn Quốc với các xu hướng thời trang toàn cầu khác là sự pha trộn độc đáo giữa phong cách đường phố, thời trang cao cấp và nhấn mạnh vào cá tính. Thời trang Hàn Quốc là phá vỡ khuôn mẫu và tạo ra phong cách riêng biệt của mỗi người. Ảnh hưởng của K-pop có thể được nhìn thấy trong cách mọi người thử nghiệm những màu sắc táo bạo, hoa văn và phụ kiện từng được coi là độc đáo. Thời trang Hàn Quốc đã thổi luồng sinh khí mới vào ngành công nghiệp này, khuyến khích mọi người theo đuổi khát vọng thời trang và thể hiện con người thật của mình thông qua quần áo. Một khía cạnh của thời trang Hàn Quốc đã thu hút được nhiều người theo dõi là khái niệm "thời trang sân bay". Thời trang sân bay đề cập đến trang phục mà những người nổi tiếng mặc khi đi du lịch, thể hiện phong cách thoải mái và giản dị nhưng vẫn phong cách. Xu hướng này đã thu hút sự chú ý của những người đam mê thời trang trên toàn thế giới, những người hiện đang cẩn thận lựa chọn trang phục du lịch của mình để bắt chước phong cách nhẹ nhàng nhưng thời trang của những người nổi tiếng Hàn Quốc. Sự trỗi dậy của thời trang Hàn Quốc cũng đã gây chú ý cho các nhà thiết kế và thương hiệu Hàn Quốc. Từ những hãng thời trang lâu đời cho đến những nhà thiết kế mới nổi, các thương hiệu Hàn Quốc đang được công nhận nhờ những thiết kế sáng tạo và sự chú ý đến từng chi tiết. Các thương hiệu như J. Estina, Juun.J và Blindness đã tạo được tên tuổi trên toàn thế giới, với các bộ sưu tập của họ được giới thiệu tại các tuần lễ thời trang lớn và được mặc bởi những người nổi tiếng nổi tiếng. Sự phổ biến của thời trang Hàn Quốc không chỉ giới hạn ở quần áo; nó cũng đã mở rộng sang lĩnh vực làm đẹp và chăm sóc da. Các sản phẩm làm đẹp của Hàn Quốc đã gây bão trên thị trường làm đẹp toàn cầu, với công thức cải tiến và nhấn mạnh vào việc đạt được làn da hoàn hảo. Ngành công nghiệp K-beauty được biết đến với các sản phẩm và quy trình chăm sóc da phong phú, bao gồm mặt nạ giấy, tinh chất và huyết thanh, đã thu hút được lượng lớn người theo dõi trên toàn thế giới. Sức ảnh hưởng của làn sóng Hallyu không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thời trang. Nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong ngành du lịch, với ngày càng nhiều người đến Hàn Quốc để trải nghiệm văn hóa trực tiếp. Khách du lịch đang đổ xô đến các khu mua sắm nổi tiếng như Myeongdong và Garosu-gil để nắm bắt những xu hướng thời trang mới nhất của Hàn Quốc và lướt qua vô số quần áo hợp thời trang. Sự trỗi dậy của thời trang Hàn Quốc là minh chứng cho sức mạnh của làn sóng Hallyu và khả năng định hình văn hóa và xu hướng toàn cầu. Với sự pha trộn độc đáo giữa phong cách đường phố, thời trang cao cấp và cá tính, thời trang Hàn Quốc đã trở thành một thế lực đáng gờm trong ngành. Nhờ ảnh hưởng của K-pop, các nhà thiết kế Hàn Quốc và sự phổ biến ngày càng tăng của các sản phẩm làm đẹp Hàn Quốc, có thể nói rằng làn sóng Hallyu đã khẳng định vững chắc thời trang Hàn Quốc như một hiện tượng toàn cầu.Tìm Hiểu: style hàn quốc nữ mùa hè#phối_đồ_nam_hàn_quốc, #ThếGiớiThờiTrang, #Thế_Giới_Thời_Trang, #thegioithoitrang, #thegioithoitrang, #thờitranghànquốc, #thời_trang_hàn_quốc
Thời trang phong cách đường phố đã trở thành một hiện tượng toàn cầu, với các tín đồ thời trang xuống đường để thể hiện phong cách độc đáo và cá tính của họ. Tuy nhiên, để tạo ra một phong cách đường phố nổi bật không nhất thiết phải chi quá nhiều tiền. Với một vài thủ thuật đơn giản, bạn có thể dễ dàng nâng cấp tủ quần áo hàng ngày của mình và tạo ra một bộ quần áo sành điệu dễ dàng thu hút mọi ánh nhìn ở bất cứ đâu. Một trong những cách dễ nhất để nâng tầm phong cách đường phố của bạn là kết hợp các phụ kiện nổi bật. Phụ kiện có thể ngay lập tức biến một bộ trang phục bình thường thành một phong cách thời trang. Cân nhắc thêm một chiếc vòng cổ chunky táo bạo, một chiếc thắt lưng nổi bật hoặc một chiếc mũ thời trang vào trang phục của bạn. Những phụ kiện này không chỉ thể hiện phong cách mà còn tạo thêm nét cá tính cho bộ trang phục của bạn. Layering là một cách tuyệt vời khác để nâng tầm phong cách thời trang đường phố của bạn. Trộn và kết hợp các kết cấu, hoa văn và màu sắc khác nhau để tạo ra một cái nhìn hấp dẫn và năng động. Phối áo cổ lọ bên dưới một chiếc váy suông, kết hợp áo khoác da với váy bồng bềnh hoặc khoác áo khoác denim bên ngoài áo phông họa tiết. Khả năng là vô tận, và việc xếp lớp sẽ tạo thêm chiều sâu và kích thước cho trang phục của bạn. Đừng ngại thử nghiệm ghép nối độc đáo. Kết hợp những món đồ cao cấp và thấp cấp, kết hợp những chiếc váy nữ tính với bốt chunky hoặc tạo kiểu cho một chiếc áo cộc tay được thiết kế riêng với quần jean rách. Thời trang phong cách đường phố là phá vỡ các quy tắc và tạo ra sự kết hợp bất ngờ. Bằng cách bước ra khỏi vùng an toàn của mình và thử nghiệm các phong cách khác nhau, bạn có thể có được phong cách đường phố thực sự độc đáo và sắc sảo. Thêm các điểm nhấn màu sắc là một cách dễ dàng và hiệu quả khác để nâng tầm tủ quần áo hàng ngày của bạn. Kết hợp màu sắc tươi sáng, rực rỡ vào trang phục của bạn để tạo ra một cái nhìn nổi bật về mặt thị giác. Cho dù đó là một đôi giày thể thao màu neon, một chiếc túi xách sặc sỡ hay một chiếc áo khoác nổi bật, những phụ kiện rực rỡ này sẽ ngay lập tức đưa phong cách đường phố của bạn lên một tầm cao mới. Một trong những mẹo thời trang quan trọng nhất để nâng tầm phong cách đường phố của bạn là chú ý đến các chi tiết. Đầu tư vào những mảnh chất lượng với các chi tiết độc đáo sẽ bắt mắt. Hãy tìm những chiếc khóa kéo thú vị, miếng thêu hoặc hoa văn phức tạp. Những chi tiết nhỏ này có thể tạo ra tác động lớn và khiến trang phục của bạn khác biệt với phần còn lại. Cuối cùng, sự tự tin chính là chìa khóa giúp bất kỳ bộ trang phục nào cũng tỏa sáng. Bất kể bạn đang mặc gì, nếu bạn cảm thấy tự tin và thoải mái, phong cách đường phố của bạn sẽ toát lên sự chân thực và phong cách. Nắm bắt sự tinh tế cá nhân của riêng bạn và thể hiện bản thân thông qua các lựa chọn quần áo của bạn. Xét cho cùng, thời trang phong cách đường phố là tôn vinh cá tính và sở hữu phong cách độc đáo của bạn. Tóm lại, nâng cấp tủ quần áo hàng ngày của bạn và đạt được phong cách đường phố sát thủ không phải là một nhiệm vụ khó khăn. Bằng cách kết hợp các phụ kiện nổi bật, thử nghiệm những cách kết hợp độc đáo, chơi với màu sắc, chú ý đến từng chi tiết và thể hiện sự tự tin, bạn có thể nâng phong cách đường phố của mình lên một tầm cao mới. Vì vậy, hãy tiếp tục và thử nghiệm những mẹo thời trang này để tạo ra phong cách đường phố ấn tượng và độc nhất của riêng bạn.
Tìm Hiểu: black street style
#black_street_style, #ThếGiớiThờiTrang, #Thế_Giới_Thời_Trang, #thegioithoitrang, #thegioithoitrang, #streetstyle, #street_style"
Quán quân The Voice Kids Trịnh Nhật Minh ra CD đầu tay đúng dịp Tết
Thứ 3, 09:46, 13/02/2018
VOV.VN - Gần 2 năm sau đăng quang ngôi vị Quán quân Giọng hát Việt nhí 2016, Trịnh Nhật Minh mới vừa gửi tới khán giả CD Vol1.
Đoạt ngôi vị Quán quân Giọng hát Việt nhí 2016, Trịnh Nhật Minh gây ấn tượng mạnh với khán giả không chỉ bởi sở hữu giọng hát “khủng” với quãng giọng rộng mà còn bởi phong cách trình diễn chuyên nghiệp, cách hát luôn mang lại cảm xúc mãnh liệt cho người nghe.
Trở thành “hiện tượng” của mùa 4 Giọng hát Việt nhí – mùa thi được coi là thành công nhất của chương trình này, Trịnh Nhật Minh cho khán giả thấy sự đa dạng trong giọng hát của mình.
Những ca khúc em dự thi đều là những bài đòi hỏi một nền tảng kỹ thuật thanh nhạc tốt để “xử lý” như "Đá trông chồng" (Lê Minh Sơn), "Mẹ tôi" (Trần Tiến), "Phật Bà nghìn mắt nghìn tay" (An Thuyên), "Con cò" (Lưu Hà An), "Bác làm vườn và con chim sâu" (Mew Amazing)...
Ngoài việc thể hiện những ca khúc khó, Trịnh Nhật Minh còn khoe được sự đa phong cách khi hát được nhiều thể loại âm nhạc khác nhau như dân gian, nhạc nhẹ, nhạc thiếu nhi và cả những ca khúc quốc tế nổi tiếng như "Ariang alone"... Ở thể loại nào, Trịnh Nhật Minh cũng thể hiện “ra chất” căn bản của dòng nhạc đó. Vì thế, trong các đêm thi, em luôn nhận được “cơn mưa” lời khen của HLV và nhận được số phiếu bình chọn cao của khán giả.
Tất cả những ca khúc mà Trịnh Nhật Minh thể hiện trong cuộc thi Giọng hát Việt nhí 2016 đã được cô giáo – ca sĩ Đinh Lan Hương biên tập, nhạc sĩ Hồ Hoài Anh phối khí để đưa vào CD Vol 1 của Trịnh Nhật Minh mang tên "Trịnh Nhật Minh – Những ca khúc được nhiều người yêu thích".
Khán giả sẽ được thưởng thức lại toàn bộ cũng bài hát ấn tượng trong cuộc thi như "We belong together" (Huỳnh Hiền Năng), "Gặp mẹ trong mơ" (nhạc ngoại), "Thành phố miền Quan họ" (Nguyễn Cường), "Cha ơi" (Chu Công Cương), "Tình ca" (Phạm Duy)...
Đặc biệt là ca khúc "Tết xuân" (Hồ Hoài Anh) từng được rất nhiều ca sĩ hát trước đó, nhưng Trịnh Nhật Minh đã thể hiện bằng một tinh thần mới đầy trong trẻo, hồn nhiên, đẹp đẽ như chính lứa tuổi của em, cộng hưởng cùng sự thăng hoa bay bổng của tâm hồn khiến cho người nghe cảm giác đầy náo nức trước thềm Xuân mới 2018.
Ngoài ca khúc Tết xuân đầy náo nức, khán giả cũng sẽ xúc động khi nghe Trịnh Nhật Minh da diết với "Gặp mẹ trong mơ", mạnh mẽ và đầy khao khát trong "Con cò", ma mị với "Phật Bà nghìn mắt nghìn tay", biến ảo với "Đá trông chồng", đầy chất dân ca qua bài hát "Thành phố miền quan họ", hào sảng nhưng đầy biết ơn với "Cha ơi"...
Trịnh Nhật Minh chia sẻ: “Đây là những ca khúc đã gắn bó với con và được khán giả yêu thích. Con mong rằng tiếng hát của mình sẽ ngày càng bay xa để đến được với nhiều khán giả hơn nữa. Âm nhạc là sự đồng điệu của tâm hồn, con mong giọng hát của con sẽ luôn mang đến cảm xúc cho khán giả và là món ăn tinh thần được cô bác, anh chị khắp nơi yêu mến”./.
VOV.VN - Với tỉ lệ bình chọn cao nhất trong top 4 (36,09%), Nhật
Minh đã trở thành Quán quân Giọng hát Việt nhí 2016 sau hai màn trình diễn đầy thuyết phục.
Thiếu Anh/VOV.VN
* Nguồn : vov.vn/van-hoa/am-nhac/quan-quan-the-voice-kids-trinh-nha...
P.S :
Nhạc phẩm CHA ƠI là một nhạc phẩm rất rất đặc biệt ý nghĩa đối với Tác giả " dành tặng riêng CHA " cho nên Phần GHI ÂM & GHI HÌNH có trong MV CHA ƠI là thuộc BẢN QUYỀN & ĐỘC QUYỀN của Musician CHU CÔNG CƯƠNG là người duy nhất trực tiếp được phép LƯU HÀNH & PHÁT HÀNH .
Vì vậy mọi cá nhân , đơn vị hoặc tổ chức nào phát hành MV & Bản ghi âm mp3 hoặc cover bài hát thì phải được sự đồng ý và cấp phép bằng văn bản từ Musician CHU CÔNG CƯƠNG thì mới được phép LƯU HÀNH & PHÁT HÀNH. Ngược lại đều VI PHẠM NGHIÊM TRỌNG BẢN QUYỀN - ĐỘC QUYỀN của Tác giả .
MV CHA ƠI đã được QUYỀN BẢO VỆ TÁC GIẢ ÂM NHẠC VIỆT NAM VCPMC BẢO HỘ ĐỘC QUYỀN & được XÁC NHẬN QUYỀN LIÊN QUAN từ CỤC BẢN QUYỀN TÁC GIẢ VIỆT NAM COV (Hà Nội) QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM & GHI HÌNH có trong MV CHA ƠI. Trân trọng.
* GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ QUYỀN LIÊN QUAN " MUSIC VIDEO CHA ƠI " : www.facebook.com/CHUCONGCUONG/photos/a.1281955425218738.1...
* GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ QUYỀN TÁC GIẢ NHẠC PHẨM " CHA ƠI " : www.facebook.com/CHUCONGCUONG/photos/a.1281955425218738.1...
Thay vì chỉ chọn mặc áo sơ mi có phần đơn điệu và không có gì nổi bật, tại sao bạn không thử cách mặc layer cực đơn giản dưới đây nhỉ? Chỉ phối thêm một chiếc áo len cổ tròn hay cổ tim với áo sơ mi bên trong, bạn đã biến set đồ với áo dạ dáng dài không còn nhàm chàn chút nào.
Cách phối đồ với áo khoác dạ nam dáng dài phong cách và thanh lịch
via
May áo gió theo mẫu thời trang không chỉ đơn thuần là lựa chọn một chiếc áo khoác giữ ấm, mà còn là cách để bạn thể hiện phong cách cá nhân một cách độc đáo và tinh tế. Với thiết kế thời trang hiện đại, áo gió không chỉ mang lại sự tiện lợi và thoải mái trong các hoạt động hàng ngày mà còn giúp bạn nổi bật, thu hút ánh nhìn. Cùng mayaokhoacdongphuc tìm hiểu về sự tiện lợi và những phong cách phối đồ thời trang của áo gió, để khám phá cách biến chiếc áo khoác này thành điểm nhấn phong cách cho trang phục của bạn.
May áo gió theo mẫu thời trang là gì?
May áo gió theo mẫu thời trang là dịch vụ thiết kế và sản xuất áo gió theo yêu cầu của khách hàng, với sự tập trung vào phong cách, thẩm mỹ và cá nhân hóa. Khác với các sản phẩm áo gió sản xuất hàng loạt, dịch vụ này cho phép khách hàng tự do lựa chọn kiểu dáng, chất liệu, màu sắc và các chi tiết nhỏ như đường may, khóa kéo, hoặc logo để tạo nên một sản phẩm độc đáo.
Việc may áo gió theo mẫu thời trang không chỉ giúp tạo ra những chiếc áo gió độc đáo, thể hiện phong cách cá nhân hay thương hiệu, mà còn đảm bảo đáp ứng các nhu cầu thiết yếu như chống nước, cản gió, hay thậm chí tích hợp các yếu tố thời trang hiện đại. Dịch vụ này đặc biệt phổ biến với cá nhân, doanh nghiệp, hay nhóm muốn thể hiện sự khác biệt và sự chuyên nghiệp qua trang phục.
May áo gió theo mẫu thời trang là gì?
Sự tiện lợi và thoải mái của việc may áo gió theo mẫu thời trang
Bảo vệ khi hoạt động ngoài trời: Áo gió được thiết kế với chất liệu chống thấm nước và cản gió, giúp bảo vệ bạn khỏi những cơn gió lạnh hoặc mưa bất chợt, nhưng vẫn đảm bảo sự thoải mái khi vận động. Đặc biệt, những mẫu áo gió cao cấp còn có khả năng co giãn tốt, tạo sự linh hoạt tối đa khi tham gia các hoạt động thể thao, dã ngoại hoặc du lịch.
Phù hợp với nhiều điều kiện thời tiết: Hiện nay, nhiều loại áo gió đa năng tích hợp khả năng chống tia UV và chống nước, giúp bạn thoải mái di chuyển trong cả nắng nóng lẫn mưa gió. Khi thời tiết thay đổi, chỉ cần chọn đúng mẫu áo gió phù hợp, bạn sẽ luôn cảm thấy thoải mái và an toàn trong bất kỳ tình huống nào.
Dễ phối đồ với nhiều phong cách: Áo gió dễ dàng kết hợp với nhiều trang phục như quần jeans, quần thể thao hay chân váy, tạo nên nhiều phong cách linh hoạt. Bạn có thể tự do phối đồ, tạo ra những outfit phù hợp cho cả công việc, học tập và giải trí, vừa thời trang vừa tiện lợi.
Vừa vặn với cơ thể: Khi may áo gió theo yêu cầu, bạn có thể tùy chỉnh kích thước để đảm bảo sự vừa vặn với dáng người, giúp tôn lên vóc dáng và tăng thêm sự tự tin. Một chiếc áo gió vừa vặn không chỉ thoải mái khi mặc mà còn giúp bạn trông gọn gàng và thanh lịch hơn.
Tự do chọn chất liệu: Bạn hoàn toàn có thể lựa chọn chất liệu áo gió dựa trên nhu cầu cá nhân, từ loại vải mỏng nhẹ cho những ngày nắng nóng đến loại vải dày hơn để giữ ấm khi trời lạnh. Điều này giúp bạn chủ động trong việc tìm kiếm sự thoải mái và phù hợp với phong cách sống của mình.
Việc sở hữu một chiếc áo gió không chỉ mang lại sự bảo vệ mà còn giúp bạn thể hiện phong cách cá nhân một cách đầy sáng tạo.
Sự tiện lợi và thoải mái của việc may áo gió theo mẫu thời trang
Tại sao nên may áo gió theo mẫu thời trang?
Áo gió hiện nay đang được ưa chuộng rộng rãi nhờ vào tính đa năng và tiện lợi của nó. Không chỉ giữ ấm, áo gió còn có khả năng chống nắng, tránh gió, phù hợp cho nhiều môi trường như trường học, công ty, văn phòng, góp phần tạo nên hình ảnh đồng bộ và chuyên nghiệp cho tập thể.
Được thiết kế đơn giản, tiện dụng với khóa kéo, áo gió dễ dàng sử dụng và phù hợp cho cả nam lẫn nữ, giúp người mặc thoải mái trong sinh hoạt hàng ngày và khi di chuyển. Đặc biệt, áo gió rất tiện lợi cho các hoạt động ngoài trời hoặc khi đi đường.
Với sự đa dạng về kiểu dáng, màu sắc và họa tiết, áo gió còn phù hợp với nhiều phong cách thời trang khác nhau, từ trang phục hàng ngày, đi làm, dạo phố cho đến các hoạt động thể thao. Đây là lý do áo gió trở thành món đồ thiết yếu trong tủ quần áo của nhiều người.
Tại sao nên may áo gió theo mẫu thời trang?
Một số cân nhắc liên quan khi chọn may áo gió theo mẫu thời trang
Khi lựa chọn xưởng may áo gió theo mẫu thời trang, bạn cần lưu ý một số yếu tố quan trọng sau:
Chọn chất liệu vải: Chất liệu vải đóng vai trò quyết định đến độ bền, thoải mái và khả năng chống chịu của áo gió. Các loại vải như Suýt, Tricot, và Micro thường được ưa chuộng nhờ vào độ dày, khả năng co giãn và thấm hút mồ hôi tốt. Hãy đảm bảo chọn loại vải phù hợp với nhu cầu sử dụng và điều kiện thời tiết.
In, thêu logo và họa tiết: Để tạo sự nhận diện thương hiệu và làm nổi bật mẫu áo, việc in hoặc thêu logo và slogan là cần thiết. Nên ưu tiên thêu logo để đảm bảo độ bền lâu dài, tránh hiện tượng bong tróc khi giặt nếu chọn in.
Chọn size áo phù hợp: Size áo cần được lựa chọn cẩn thận, dựa trên kích thước thực tế của từng người thay vì chọn size số chung. Điều này sẽ giúp đảm bảo áo vừa vặn, mang lại sự thoải mái và tiện lợi khi sử dụng.
Đánh giá uy tín của xưởng: Cuối cùng, hãy lựa chọn xưởng may uy tín, có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và tay nghề cao để đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng như yêu cầu.
Một số cân nhắc liên quan khi chọn may áo gió theo mẫu thời trang
Nâng tầm outfit với áo gió theo mẫu thời trang
Để tạo nên những bộ trang phục phong cách và hiện đại với áo gió theo mẫu thời trang, dưới đây là một số mẹo phối đồ giúp bạn nổi bật và thoải mái trong mọi tình huống:
Phối áo gió với chân váy
Chân váy midi hoặc maxi: Áo gió kết hợp cùng chân váy midi hoặc maxi sẽ mang đến vẻ nữ tính và thanh lịch. Bạn có thể chọn chân váy có màu sắc hoặc họa tiết nổi bật để làm điểm nhấn.
Chân váy denim: Nếu muốn trẻ trung và năng động, phối áo gió với chân váy denim ngắn sẽ là lựa chọn hoàn hảo. Thêm một đôi giày thể thao để tạo nên bộ trang phục thoải mái và cá tính.
Phối áo gió với quần Jean hoặc quần Kaki
Quần jean skinny: Khi phối áo gió với quần jean skinny, bạn sẽ tôn lên vóc dáng thon gọn. Áo thun hoặc áo sơ mi mặc bên trong sẽ tạo sự cân đối, và một đôi giày cao gót sẽ tăng thêm vẻ quyến rũ.
Quần kaki: Kết hợp áo gió với quần kaki mang lại vẻ thanh lịch, thoải mái. Đây là lựa chọn hoàn hảo cho những dịp đi làm hoặc đi chơi nhẹ nhàng.
Phối với áo thun, áo sơ mi, hoặc áo Hoodie
Áo thun: Áo thun basic bên trong áo gió sẽ mang đến sự năng động và thoải mái. Chọn áo có họa tiết hoặc màu nổi bật để tạo điểm nhấn.
Áo sơ mi: Nếu bạn muốn vẻ ngoài chuyên nghiệp, kết hợp áo gió với áo sơ mi là lựa chọn hoàn hảo cho môi trường công sở hoặc buổi gặp mặt quan trọng.
Áo hoodie: Đối với phong cách trẻ trung, thoải mái, áo hoodie bên trong áo gió kết hợp với quần jogger hoặc quần thể thao sẽ tạo nên outfit khỏe khoắn và năng động.
Thêm phụ kiện đi kèm
Kính râm: Một chiếc kính râm thời trang không chỉ bảo vệ mắt mà còn tạo điểm nhấn ấn tượng cho trang phục.
Giày thể thao: Giày thể thao là lựa chọn tuyệt vời để hoàn thiện phong cách năng động, dễ dàng phối với nhiều trang phục.
Giày cao gót: Để tăng thêm sự sang trọng và thanh lịch, giày cao gót sẽ giúp tôn dáng và tạo sự nổi bật.
Găng tay giữ ấm: Vào những ngày lạnh, găng tay là phụ kiện vừa giữ ấm vừa tạo phong cách riêng biệt, bạn có thể chọn màu sắc hoặc họa tiết phù hợp với trang phục.
Những cách phối đồ này không chỉ giúp bạn tự tin hơn mà còn linh hoạt cho nhiều hoàn cảnh khác nhau như đi làm, đi chơi, hay tham gia các hoạt động ngoài trời.
Nâng tầm outfit với áo gió theo mẫu thời trang
Tìm xưởng may áo gió theo mẫu thời trang đẹp, uy tín Garico
Nếu bạn đang tìm kiếm xưởng may áo gió theo mẫu thời trang đẹp và uy tín, Công ty TNHH Sản Xuất – Thương Mại GARICO là lựa chọn lý tưởng. GARICO cung cấp nhiều loại vải cao cấp như nylon chống gió, polyester bền nhẹ, vải dù chống thấm nước và cotton mềm mại, đảm bảo sản phẩm chất lượng, thoáng khí và bền bỉ.
Đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp sẽ hỗ trợ tư vấn, giúp bạn chọn mẫu thiết kế và chất liệu phù hợp. Quy trình đặt hàng tại GARICO rõ ràng, từ tư vấn, chọn vải, may mẫu đến giao hàng nhanh chóng trong 10-15 ngày. Sản phẩm được cam kết về chất lượng, cùng mức giá cạnh tranh, đặc biệt khi đặt hàng số lượng lớn.
Tìm xưởng may áo gió theo mẫu thời trang đẹp, uy tín Garico
Kết luận
May áo gió theo mẫu thời trang không chỉ đảm bảo sự thoải mái và tiện lợi, mà còn mang đến cơ hội để bạn thể hiện gu thẩm mỹ cá nhân, tạo điểm nhấn phong cách trong mỗi lần xuất hiện. Sự đa dạng trong thiết kế, chất liệu cùng khả năng cá nhân hóa khiến áo gió theo mẫu thời trang trở thành món đồ không thể thiếu, phù hợp cho mọi hoạt động từ công sở, dạo phố đến các chuyến dã ngoại ngoài trời. Hãy nhanh tay đặt ngay cho mình một chiếc áo gió độc đáo để luôn tự tin và nổi bật trong mọi hoàn cảnh!
THÔNG TIN LIÊN HỆ
CÔNG TY TNHH SX-TM GARICO
Địa Chỉ: Số 222 Trường Chinh, Phường Tân Hưng Thuận, Quận 12, TP. Hồ Chí Minh
Địa Chỉ Xưởng: 52/3 ĐHT 21, Phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0907913918
Email: toanlamqn@gmail.com
Website: ift.tt/tBhgOfT
> Xem thêm:
may áo gió theo yêu cầu
may áo gió 2 lớp
xưởng may áo gió
đồng phục áo gió shipper
xưởng may áo gió giá rẻ
Rate this post
Nổi Mẩn Đỏ Ngứa: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Cách Chăm Sóc Toàn Diện
Đoạn giới thiệu
Nổi mẩn đỏ ngứa là một triệu chứng da liễu phổ biến, gây ra cảm giác khó chịu, ảnh hưởng đến sinh hoạt và tâm lý người bệnh. Tình trạng này có thể xuất hiện ở bất kỳ ai, bất kỳ độ tuổi nào, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc kiến thức đầy đủ và chính xác về nổi mẩn đỏ ngứa, từ nguyên nhân, triệu chứng, mức độ nguy hiểm đến các phương pháp điều trị và phòng ngừa hiệu quả. Đặc biệt, bài viết sẽ tập trung phân tích vai trò của gan trong việc hình thành triệu chứng này và giới thiệu giải pháp hỗ trợ từ sản phẩm Long Đởm Giải Độc Gan Bình Đông.
1. Đôi nét về nổi mẩn đỏ ngứa
1.1. Nổi mẩn đỏ ngứa là gì?
Nổi mẩn đỏ ngứa, hay còn gọi là phát ban, là tình trạng da xuất hiện các nốt mẩn đỏ, có thể kèm theo sưng, viêm, mụn nước, bong tróc da, gây ngứa ngáy, khó chịu. Vùng da bị nổi mẩn có thể là một vùng da khu trú (như nổi mẩn đỏ ngứa ở mặt, tay, chân, lưng, bụng) hoặc lan rộng ra toàn thân (nổi mẩn ngứa khắp người).
1.2. Dấu hiệu của nổi mẩn đỏ ngứa
Nổi mẩn đỏ ngứa thường có các dấu hiệu đặc trưng sau:
Mẩn đỏ: Da xuất hiện các nốt mẩn đỏ với kích thước khác nhau, từ nhỏ li ti đến lớn bằng đồng xu. Bề mặt da có thể sần sùi, thô ráp.
Ngứa: Cảm giác ngứa ngáy khó chịu, có thể từ nhẹ đến dữ dội, tăng lên khi gãi, tiếp xúc với nước nóng, mặc quần áo chật, đổ mồ hôi, thay đổi thời tiết.
Vị trí: Nổi mẩn đỏ ngứa có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, thường gặp ở mặt, tay, chân, lưng, bụng, ngực,...
Triệu chứng đi kèm: Tùy thuộc vào nguyên nhân, có thể kèm theo các triệu chứng như nổi mụn nước, bọng nước, da khô, bong tróc da, sưng tấy, đau rát, sốt, mệt mỏi,...
1.3. Đánh giá mức độ nặng, nhẹ của nổi mẩn đỏ ngứa
Mức độ nổi mẩn đỏ ngứa được đánh giá dựa trên các yếu tố sau:
Diện tích: Nổi mẩn đỏ khu trú ở một vùng da nhất định hay lan rộng ra toàn thân.
Cường độ ngứa: Ngứa nhẹ, vừa phải hay dữ dội.
Triệu chứng đi kèm: Có hay không kèm theo sốt, mệt mỏi, sưng hạch,...
Xem thêm: www.binhdong.vn/cam-nang-suc-khoe/nguyen-nhan-da-noi-man-...
2. Nguyên nhân gây ra nổi mẩn đỏ ngứa
Nổi mẩn đỏ ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, được chia thành 2 nhóm chính:
2.1. Nguyên nhân bên ngoài
Dị ứng: Là nguyên nhân phổ biến nhất, gây ra bởi các tác nhân như:
Thực phẩm: Hải sản, trứng, sữa, đậu phộng, lúa mì, các loại hạt,...
Thuốc: Kháng sinh, thuốc giảm đau, thuốc chống viêm,...
Mỹ phẩm: Kem dưỡng da, sữa tắm, phấn trang điểm,...
Phấn hoa, bụi bẩn, nấm mốc, lông động vật,...
Hóa chất: Xà phòng, nước tẩy rửa, thuốc nhuộm,...
Kim loại: Niken, crom, coban,...
Côn trùng cắn: Muỗi, kiến, ong, bọ chét, rệp,...
Thời tiết: Nóng bức, hanh khô, thay đổi thời tiết đột ngột,...
Mặc quần áo chật, chất liệu thô ráp, không thấm hút mồ hôi,...
Tiếp xúc với nguồn nước ô nhiễm, chứa nhiều hóa chất,...
2.2. Nguyên nhân bên trong
Bệnh lý về gan: Viêm gan, xơ gan, ung thư gan,... khiến gan suy yếu, giảm khả năng đào thải độc tố, gây mẩn ngứa, vàng da, vàng mắt,...
Bệnh lý về thận: Suy thận, viêm cầu thận,... khiến thận suy yếu, độc tố tích tụ trong máu, gây ngứa, nổi mẩn đỏ, phù nề,...
Rối loạn nội tiết tố: Phụ nữ mang thai, phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc mãn kinh, người bị rối loạn tuyến giáp,... dễ bị nổi mẩn đỏ ngứa do thay đổi nội tiết tố.
Bệnh lý tự miễn: Lupus ban đỏ hệ thống, viêm da cơ địa (eczema), vảy nến,... khiến hệ miễn dịch tấn công nhầm vào các tế bào da, gây viêm, ngứa, nổi mẩn đỏ.
Nhiễm ký sinh trùng: Giun sán, ghẻ,... gây ngứa, nổi mẩn đỏ ở da, đặc biệt là ở vùng bụng, bẹn, kẽ ngón tay, ngón chân.
Căng thẳng, stress kéo dài: Gây rối loạn nội tiết tố, suy giảm hệ miễn dịch, khiến da dễ bị kích ứng, nổi mẩn đỏ ngứa.
Bệnh lý khác: Tiểu đường, bệnh lý về máu, ung thư,... cũng có thể là nguyên nhân gây nổi mẩn đỏ ngứa.
3. Nổi mẩn đỏ ngứa có nguy hiểm không?
Hầu hết các trường hợp nổi mẩn đỏ ngứa đều lành tính, không nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách, tình trạng này có thể gây ra nhiều biến chứng:
Nhiễm trùng da: Gãi ngứa khiến da bị trầy xước, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập, gây viêm da, mụn mủ, nhiễm trùng máu,...
Sẹo: Tổn thương da do gãi ngứa có thể để lại sẹo thâm, sẹo lồi, gây mất thẩm mỹ.
Ảnh hưởng tâm lý: Ngứa ngáy kéo dài gây khó chịu, mất ngủ, căng thẳng, lo âu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Biến chứng nguy hiểm: Trong một số trường hợp, nổi mẩn đỏ ngứa có thể là dấu hiệu của các bệnh lý nguy hiểm như suy gan, suy thận, ung thư,...
Cần đi khám bác sĩ ngay lập tức nếu:
Nổi mẩn đỏ ngứa kèm theo sốt cao, khó thở, sưng mặt, môi, lưỡi.
Mẩn đỏ lan rộng nhanh chóng, xuất hiện bọng nước, chảy dịch mủ.
Ngứa ngáy dữ dội, không thuyên giảm khi sử dụng các biện pháp điều trị tại nhà.
Xuất hiện các triệu chứng bất thường khác như mệt mỏi, sụt cân, chán ăn,...
4. Phương pháp điều trị nổi mẩn đỏ ngứa
Việc điều trị nổi mẩn đỏ ngứa cần dựa trên nguyên nhân và mức độ bệnh. Bác sĩ sẽ chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp.
4.1. Phương pháp tác động ngoài da
Kem bôi da:
Kem chứa corticosteroid: Giảm viêm, giảm ngứa nhanh chóng, tuy nhiên cần sử dụng theo chỉ định của bác sĩ, tránh lạm dụng gây tác dụng phụ.
Kem dưỡng ẩm: Giảm khô da, bong tróc da, làm dịu da, giảm ngứa. Nên chọn loại kem dưỡng ẩm phù hợp với làn da, không chứa hương liệu, chất tạo màu.
Kem/gel làm mát da: Chứa các thành phần như menthol, camphor,... giúp làm dịu da, giảm ngứa.
Tắm bằng nước lá: Lá trà xanh, lá khế, lá kinh giới,... có tính kháng khuẩn, chống viêm, giúp giảm ngứa.
Chườm lạnh: Đắp khăn lạnh, gạc mát lên vùng da bị ngứa giúp giảm viêm, giảm ngứa.
Tránh gãi ngứa: Gãi ngứa chỉ khiến da bị tổn thương nặng hơn, tăng nguy cơ nhiễm trùng.
4.2. Phương pháp tác động từ bên trong
Sử dụng thuốc:
Thuốc kháng histamin: Giảm ngứa, giảm dị ứng.
Thuốc kháng sinh: Sử dụng trong trường hợp da bị nhiễm trùng.
Thuốc corticosteroid: Giảm viêm, ức chế hệ miễn dịch, sử dụng trong trường hợp mẩn ngứa nặng, không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác.
Thuốc điều trị nguyên nhân: Thuốc điều trị bệnh gan, bệnh thận, rối loạn nội tiết tố,...
Điều chỉnh chế độ ăn uống:
Bổ sung rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu,... cung cấp vitamin, khoáng chất, chất xơ, giúp tăng cường hệ miễn dịch, bảo vệ da.
Hạn chế đồ ăn cay nóng, nhiều dầu mỡ, rượu bia, cà phê, thức ăn nhanh,... gây nóng trong, kích ứng da.
Uống đủ nước, khoảng 2 lít nước mỗi ngày, giúp thanh lọc cơ thể, đào thải độc tố.
Điều chỉnh lối sống:
Sinh hoạt điều độ, ngủ đủ giấc, tránh thức khuya.
Tập thể dục thường xuyên, giúp tăng cường sức khỏe, cải thiện tuần hoàn máu, tăng cường hệ miễn dịch.
Tránh căng thẳng, stress kéo dài, tập yoga, thiền định,... để thư giãn tinh thần.
Sử dụng sản phẩm hỗ trợ giải độc gan: Long Đởm Giải Độc Gan Bình Đông là sản phẩm được bào chế từ thảo dược thiên nhiên, giúp hỗ trợ thanh nhiệt, giải độc gan, tăng cường chức năng gan, giảm mẩn ngứa, mụn nhọt, vàng da,...
5. Cách phòng ngừa nổi mẩn đỏ ngứa
Để phòng ngừa nổi mẩn đỏ ngứa, bạn nên:
Giữ vệ sinh da sạch sẽ, tắm rửa hàng ngày bằng nước ấm, sữa tắm dịu nhẹ, không chứa xà phòng, hương liệu.
Mặc quần áo thoáng mát, thấm hút mồ hôi, tránh mặc quần áo chật, chất liệu thô ráp.
Hạn chế tiếp xúc với hóa chất, mỹ phẩm, phấn hoa, bụi bẩn, lông động vật,...
Xây dựng chế độ ăn uống khoa học, bổ sung nhiều rau xanh, trái cây, uống đủ nước.
Hạn chế sử dụng rượu bia, thuốc lá, đồ ăn cay nóng, nhiều dầu mỡ.
Sinh hoạt điều độ, ngủ đủ giấc, tránh căng thẳng, stress kéo dài.
Tăng cường sức đề kháng cho cơ thể bằng cách tập thể dục thường xuyên, bổ sung vitamin và khoáng chất.
Khám sức khỏe định kỳ để phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh lý tiềm ẩn.
6. Tổng kết
Nổi mẩn đỏ ngứa là một triệu chứng da liễu phổ biến, có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Hầu hết các trường hợp đều lành tính, tuy nhiên, bạn không nên chủ quan. Hãy áp dụng các biện pháp phòng ngừa và điều trị kịp thời để bảo vệ sức khỏe làn da của mình. Đặc biệt, hãy chú ý đến sức khỏe lá gan, bởi gan đóng vai trò quan trọng trong việc đào thải độc tố, bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây hại.
7. Giới thiệu về sản phẩm Long đởm giải độc gan, Giới thiệu về Dược Bình Đông
Long Đởm Giải Độc Gan Bình Đông là sản phẩm được bào chế từ bài thuốc cổ phương Long Đởm Tả Can Thang, kết hợp với công nghệ sản xuất hiện đại, có tác dụng:
Hỗ trợ thanh nhiệt, giải độc gan, bảo vệ tế bào gan, tăng cường chức năng gan.
Giúp giảm mẩn ngứa, mụn nhọt, vàng da, nóng trong do chức năng gan suy giảm.
Hỗ trợ điều trị các bệnh lý về gan như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ,...
Sản phẩm được chiết xuất từ các thảo dược thiên nhiên an toàn và lành tính như:
Long đởm thảo: Thanh nhiệt, giải độc, mát gan, lợi mật.
Diệp hạ châu: Bảo vệ tế bào gan, hạ men gan, giảm viêm gan.
Atiso: Tăng cường chức năng gan, lợi tiểu, mát gan.
Chi tử: Thanh nhiệt, giải độc, lợi mật, giảm vàng da.
Nhân trần: Lợi tiểu, mát gan, giải độc, giảm mẩn ngứa.
Dược Bình Đông là thương hiệu uy tín với hơn 70 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và phân phối các sản phẩm Đông dược. Tất cả các sản phẩm của Dược Bình Đông đều được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, đạt tiêu chuẩn GMP, đảm bảo chất lượng và an toàn cho người sử dụng.
8. Câu hỏi thường gặp
Câu hỏi 1: Nổi mẩn đỏ ngứa có lây không?
Trả lời: Hầu hết các trường hợp nổi mẩn đỏ ngứa không lây. Tuy nhiên, một số bệnh lý gây nổi mẩn đỏ ngứa như thủy đậu, sởi, rubella,... có thể lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp.
Câu hỏi 2: Nổi mẩn đỏ ngứa khi mang thai có nguy hiểm không?
Trả lời: Nổi mẩn đỏ ngứa khi mang thai khá phổ biến, thường do thay đổi nội tiết tố. Hầu hết các trường hợp đều lành tính, không ảnh hưởng đến thai nhi. Tuy nhiên, bạn nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác nguyên nhân và có phương pháp điều trị phù hợp.
Câu hỏi 3: Sử dụng Long Đởm Giải Độc Gan Bình Đông có tác dụng phụ không?
Trả lời: Long Đởm Giải Độc Gan Bình Đông là sản phẩm hỗ trợ thanh nhiệt, giải độc gan, được bào chế từ thảo dược thiên nhiên, an toàn cho người sử dụng. Tuy nhiên, sản phẩm không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh. Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
Tìm hiểu thêm: hackmd.io/@duocbinhdongvn/cach-dieu-tri-da-bi-noi-man-do-...
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
via
Thị trường bán giày thể thao sneaker đang ngày càng cạnh tranh cao, bởi nhu cầu sử dụng ngày càng tăng lên. Vì vậy cần tạo ra những bức ảnh giày thể thao đẹp chân thực truyền tải dễ dàng tới khách hàng tiềm năng. Trong bài viết sau đây, hãy cùng Spicy Food Studio tìm hiểu cách chụp ảnh giày thể thao đẹp sáng tạo đơn giản giúp tăng doanh bán hàng.
Chụp ảnh giày thể thao cần chuẩn bị gì?
Lựa chọn địa điểm và phông nền chụp giày phù hợp
Cách chụp ảnh giày thể thao đẹp không thể bỏ qua đó là việc chọn phông nền, background, địa điểm chụp. Nếu muốn chụp giày thể thao tự nhiên nhất, thử cho mẫu lên chân người và chụp tại địa điểm ngoài trời là những con đường trên phố hoặc nơi sân vườn có cây xanh.
Ngoài ra có thể thử chụp ảnh giày tại những studio chuyên nghiệp để dễ dàng điều chỉnh mọi thông số kỹ thuật chụp ảnh. Sắp xếp điều chỉnh phông nền thật gọn gàng, tránh chọn phồng nền quá nhiều chi tiết khiến bức ảnh rối mắt và không có điểm nhấn vào sản phẩm chính.
Ánh sáng trong chụp giày thể thao
Ánh sáng luôn là yếu tố chính làm ra bức ảnh chụp giày đẹp mắt và nổi bật. Thử cho ánh đèn studio chiếu thẳng vào đôi giày bạn sẽ thấy điều bất ngờ đó.
Tùy vào điều kiện ánh sáng xung quanh hãy lựa chọn ánh sáng và công suất đèn phù hợp nhất nhé.
Góc chụp giày sneaker đẹp
Dưới đây là các góc chụp ảnh giày thể thao chuẩn nhất tạo nên hiệu ứng tốt nhất cho sản phẩm giày và thu hút được nhiều người xem:
Góc chụp ngang: tạo cảm giác mới lạ sáng tạo khơi gợi tò mò của người xem.
Góc chụp chéo: chân thực và bắt mắt khách hàng.
Góc chụp vuông từ trên xuống: khách hàng có cái nhìn bao quát toàn bộ sản phẩm giày thể thao
Góc chụp cận cảnh: nổi bật tạo độ rõ nét chi tiết, hoa văn trên giày.
Sử dụng phần mềm công cụ chỉnh sửa ảnh
Hậu kỳ hình ảnh cần sử dụng linh hoạt các phần mềm chỉnh sửa ảnh. Nếu biết chỉnh sửa ảnh, phối màu hài hòa thì ảnh chụp giày thể thao sẽ trở nên đẹp đẽ và gây được sự chú ý hơn. Bạn có thể chỉnh sửa ảnh nhanh chóng bằng điện thoại và trên máy tính sau:
Máy tính: photoshop, lightroom…
Hệ điều hành IOS: Lightroom, Snapseed, VSCO,…
Hệ điều hành Android: Adobe Photoshop Express, Picsart, Snapseed,…
Các phần mền nào giúp chụp ảnh giày thể thao đẹp hơn?
VSCO Cam
Những ai yêu thích chụp ảnh chắc không còn quá xa lạ với app VSCO nữa. VSCO cho phép chỉnh sửa ảnh với nhiều chức năng và đa dạng filter. Bạn có thể sử dụng VSCO như một phần mềm chụp ảnh giày thể thao.
Hiện nay VSCO có thể tải miễn phí trên điện thoại. Nếu muốn xài những tính năng nâng cao mới mất phí.
Foody
Phần mềm Foody chuyên chỉnh ảnh sản phẩm, món ăn trên điện thoại di động. Foody có các filter để người dùng dễ dàng chọn lựa.
Phần mềm Foodie hiện nay hoàn toàn miễn phí trên cửa hàng ứng dụng nên có thể thử cài đặt ngay để trải nghiệm.
Analog
Nếu yêu thích màu ảnh film hãy suy nghĩ tới app Analog. Hiện nay app analog này có hơn 400 màu giả lập khác nhau đẹp chất lượng.
Tuy nhiên phần mềm chụp ảnh sản phẩm này chỉ hoạt động trên hệ điều hành iOS.
PicsArt
Phần mềm chụp ảnh chỉnh sửa ảnh chuyên nghiệp PicArt gần như có tất cả các công cụ chụp ảnh đầy đủ. PicsArt đang được tải từ cửa hàng ứng dụng miễn phí hãy tải ngay và trải nghiệp thử nhé.
Lightroom
Dân chụp hình sản phẩm chuyên nghiệp không thể không biết đến ứng dụng Lightroom. Phần mềm này vừa có phiên bản thu gọn trên điện thoại và phiên bản full trên máy tính.
Lightroom giúp chỉnh sửa chuyên nghiệp nhất, là sự lựa chọn hàng đầu cho các shop bán giày thể thao.
Hướng dẫn chụp hình giày thể thao hút khách nhất
Để có hình giày đẹp đạt hiệu quả kinh doanh tốt nhất, chúng ta cần lựa chọn các góc chụp sau:
Trải nghiệm góc chụp từ trên xuống và góc từ dưới lên
Để có cái nhìn tổng quát vào đôi giày thể thao, thì góc chụp từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên là cách phổ biến mà các nhiếp ảnh gia thường áp dụng.
Với các góc chụp này còn giúp người xem dễ dàng hình dung về sản phẩm muốn mua hơn.
Chụp cận cảnh sản phẩm
Góc chụp ảnh giày thể thao cận cảnh thường được áp dụng trong trường hợp muốn thể hiện chất liệu, chi tiết, kiểu dáng, họa tiết của giày.
Ngoài ra góc chụp cận cạnh này phù hợp với nhiều sản phẩm khác như: điện thoại, đồng hồ, quần, áo, đồ điện tử, mỹ phẩm, nước hoa…
Chụp ảnh giày thể thao ngang góc 90 độ
Chụp ngang tầm mắt giúp chủ thể giày thể thao trong bức hình được nổi bật hơn. Từ đó người xem sẽ chú ý tới sản phẩm chính và không bị xung quanh làm phân tâm.
Chụp góc chéo với giày
Nếu lựa chọn góc chụp chéo sẽ tạo nên các bức ảnh giày thể thao đẹp mắt với sự phối hợp hài hòa khéo léo giữa bối cảnh và ánh sáng.
Lưu ý, hãy chọn góc chụp có độ chéo vừa phải, trong khoảng 20 – 30 độ để cho ra những bức hình giày thể thao đẹp nhất.
Mẹo giúp ảnh giày thể thao trở nên hoàn hảo
Các mẹo dưới đây giúp bạn chụp ảnh giày thể thao trở nên hoàn hảo và chuyên nghiệp hơn.
Tránh chỉnh sửa hình ảnh quá tay
Hậu kỳ chỉnh sửa ảnh sản phẩm giày thể thao cũng rất quan trọng. Phần mềm chỉnh sửa ảnh chuyên nghiệp giúp bức ảnh được xử lý chi tiết thừa, loại bỏ những lỗi nhỏ, chỉnh màu đẹp.
Muốn hình ảnh thật nổi bật thì không thể bỏ qua bước hậu kỳ chỉnh sửa hình ảnh. Tuy nhiên, cần đảm bảo rằng bức hình sau khi chỉnh sữa vẫn đảm bảo tính chân thực và độ sắc nét.
Lựa chọn phông nền tương phản với giày
Phông nền là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới bức ảnh chụp giày thể thao…
Cách chụp ảnh giày thể thao với phông nền đẹp hoàn hảo nhất là lựa chọn background một màu hoặc tương phản với màu của giày. Điều này giúp đôi giày nổi bật tạo sự thu hút của người xem khi nhìn vào bức hình đó.
Tuyệt đối không chọn màu sắc trùng hoặc quá gần với màu của giày thể thao sẽ dễ khiến hình ảnh giày bị chìm trong background.
Tận dụng ánh sáng tự nhiên
Nếu có nguồn sáng tự nhiên hãy tận dụng nó sẽ giúp tiết kiệm được khá nhiều chi phí so với việc thuê studio chụp sản phẩm.
Muốn ảnh chụp giày có ánh sáng mạnh hay nhẹ có thể chọn lựa khung giờ chụp khác nhau trong ngày. Đồng thời trang bị một số thiết bị trợ sáng để bức ảnh đạt chất lượng tốt hơn.
Cách chụp ảnh giày sneaker siêu chất
Sự thật thực hiện bộ ảnh giày thể thao thu hút đem lại doanh số cao không hề dễ dàng như mọi người vẫn tưởng. Hãy thử tham khảo các cách dưới đây nhé:
Tham khảo research concepts của các thương hiệu lớn lâu năm
Nếu bí ý tưởng đừng ngần ngại học hỏi tham khảo những concepts sáng tạo của các thương hiệu giày lớn trên thị trường như Nike, Fila, Adidas, Puma, Converse, Gucci… hoặc các local brands trong nước.
Sắp xếp bố cục, góc máy, décor, phông nền, phối màu, props luôn là những yếu tố rất quan trọng để làm nổi bật hình ảnh giày dép. Từ đó tác động trực tiếp đến thị giác của khách hàng và ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của quảng cáo.
Concept hình ảnh quyết định xem khách hàng có dừng lại xem hay sẽ lướt qua giữa nhiều quảng cáo sản phẩm hiện lên mỗi ngày từ những thương hiệu giày dép khác.
Chú ý đến các chi tiết điểm nhấn của sản phẩm giày
Dù dù là giày thể thao, giày cao gót, giày tây hay dép xỏ ngón thì doanh nghiệp cũng cần phải biết: Khách hàng mua giày kỳ vọng vào điều gì, Chất liệu giày thể thao có êm, mềm, thoải mái không? Form giày có ôm vừa vặn với chân không? Giày có lỗ thoáng khí chống mùi hôi chân không….
Trả lời tất cả những câu hỏi trên để nắm bắt được cách chụp giày đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Đặc biệt chụp ảnh giày thể thao bán hàng cần có góc chụp cận cảnh cho khách hàng hình dung chất lượng sắc nét và chân thực nhất.
Chọn ekip chụp hình sản phẩm giày chuyên nghiệp
Muốn có hình chụp giày thể thao chuyên nghiệp chất lượng cao có thể hợp tác cùng một ekip studio thay vì tự chụp. Bên studio sẽ chịu trách nhiệm tìm hiểu nghiên cứu xây dựng concept dựa trên mong muốn của bạn, chuẩn bị đạo cụ chụp ảnh, setup, decor, chụp và chỉnh sửa từ A-Z.
Hiện nay thuê studio chụp ảnh sản phẩm là giải pháp mà đa số các shop giày sử dụng để tiết kiệm chi phí, thời gian nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho các ấn phẩm hình ảnh quảng cáo truyền thông.
Từ những chia sẻ trên, Spicy Food Studio hy vọng bạn đã có thêm nhiều thông tin hữu ích về các cách chụp ảnh giày giày thể thao đẹp, đơn giản, chuyên nghiệp và sáng tạo..
Chúng tôi luôn mong muốn được đồng hành cùng quý khách trên chặng đường thực hiện những bộ ảnh chụp giày thể thao siêu chất. Liên hệ Spicy Food Studio để tư vấn chụp ảnh giày thể thao qua số hotline: 0969 588 961 (Zalo).
>>>Xem thêm: Cách Chụp Ảnh Ví Da Đơn Giản Mang Lại Doanh Thu Cao
Bài viết Hướng Dẫn Chụp Ảnh Giày Thể Thao Đẹp Đơn Giản Siêu Chất đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Chụp hình món ăn Spicy Food Studio.
via
Bạn có biết, ngành công nghiệp spa tại Việt Nam đang phát triển với tốc độ chóng mặt, dự kiến đạt giá trị 2 tỷ USD vào năm 2025? Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu về nhân lực, đặc biệt là tạp vụ spa, sẽ tăng cao chưa từng có. Nếu bạn yêu thích sự sạch sẽ, gọn gàng và muốn làm việc trong một môi trường thư giãn, nghề tạp vụ spa có thể là cánh cửa mở ra cơ hội việc làm ổn định và đầy tiềm năng cho bạn.
Bài viết này sẽ giải đáp mọi thắc mắc của bạn về nghề tạp vụ spa từ kinh nghiệm hơn 10 năm cung cấp tạp vụ spa của NHASACHHOANMY, một trong những dịch vụ tạp vụ Đà Nẵng chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạp vụ spa thẩm mỹ viện, từ những công việc cụ thể, mức lương hấp dẫn cho đến những kỹ năng cần thiết và cơ hội thăng tiến. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích, những lời khuyên thực tế từ những người trong nghề, giúp bạn có cái nhìn toàn diện và chân thực nhất về nghề tạp vụ spa.
I. Tạp vụ Spa là gì?
Trong thế giới spa lung linh, nơi khách hàng tìm đến để thư giãn và làm đẹp, có một vị trí tuy không nổi bật nhưng lại đóng vai trò vô cùng quan trọng: đó chính là tạp vụ spa. Họ là những người âm thầm làm việc, đảm bảo không gian spa luôn sạch sẽ, gọn gàng, tạo nên một môi trường thoải mái và dễ chịu cho cả khách hàng lẫn nhân viên.
Tạp vụ spa không chỉ đơn thuần là người dọn dẹp. Họ là những người chăm sóc từng góc nhỏ của spa, từ việc lau dọn sàn nhà, phòng dịch vụ, khu vực lễ tân cho đến việc thay ga giường, sắp xếp khăn tắm, đảm bảo mọi thứ đều hoàn hảo trước khi khách hàng bước vào. Họ cũng là những người hỗ trợ khách hàng, từ việc hướng dẫn khách đến phòng, cung cấp khăn tắm, dép cho đến việc giải đáp những thắc mắc nhỏ.
Công việc của tạp vụ spa tuy không đòi hỏi bằng cấp cao nhưng lại yêu cầu sự tỉ mỉ, cẩn thận và trách nhiệm. Họ phải am hiểu về các quy trình vệ sinh spa, biết cách sử dụng các dụng cụ và hóa chất vệ sinh an toàn, đồng thời phải có khả năng làm việc độc lập và theo nhóm.
Tạp vụ spa không chỉ là một công việc, đó còn là một nghề nghiệp ổn định và có nhiều cơ hội phát triển. Với sự phát triển không ngừng của ngành spa, nhu cầu về tạp vụ spa ngày càng tăng cao. Nếu bạn là người yêu thích sự sạch sẽ, gọn gàng và muốn làm việc trong một môi trường năng động, tạp vụ spa có thể là một lựa chọn nghề nghiệp phù hợp cho bạn.
Công việc của tạp vụ Spa gồm những gì?
Công việc của tạp vụ spa tuy không phức tạp nhưng lại đòi hỏi sự tỉ mỉ và chăm chỉ. Một ngày làm việc của họ thường bắt đầu từ sáng sớm, trước khi spa mở cửa đón khách. Họ sẽ tiến hành vệ sinh toàn bộ không gian spa, từ việc lau dọn sàn nhà, phòng dịch vụ, khu vực lễ tân cho đến việc làm sạch nhà vệ sinh, đảm bảo mọi ngóc ngách đều sạch sẽ và thơm tho.
Sau khi spa mở cửa, công việc của tạp vụ spa sẽ tập trung vào việc chuẩn bị phòng dịch vụ cho khách hàng. Họ sẽ thay ga giường, khăn tắm, sắp xếp đồ dùng cá nhân, đảm bảo phòng luôn trong tình trạng sẵn sàng đón khách. Trong quá trình khách hàng sử dụng dịch vụ, tạp vụ spa cũng sẽ hỗ trợ khách hàng khi cần thiết, chẳng hạn như cung cấp thêm khăn tắm, dép hoặc hướng dẫn khách đến phòng dịch vụ.
Ngoài ra, tạp vụ spa còn có nhiệm vụ quản lý đồ dùng vệ sinh và vật dụng tiêu hao. Họ sẽ kiểm tra và bổ sung các vật dụng như giấy vệ sinh, khăn giấy, xà phòng, dầu gội,… đảm bảo luôn đủ dùng cho khách hàng và nhân viên.
Cuối ngày, sau khi spa đóng cửa, tạp vụ spa sẽ tiến hành tổng vệ sinh một lần nữa, đảm bảo không gian spa luôn sạch sẽ và sẵn sàng cho ngày làm việc tiếp theo.
Công việc của tạp vụ spa tuy có thể lặp đi lặp lại nhưng lại vô cùng quan trọng. Sự sạch sẽ và gọn gàng mà họ tạo ra không chỉ mang đến sự thoải mái cho khách hàng mà còn góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ của spa.
Một số công việc cụ thể khác mà tạp vụ spa có thể đảm nhận:
Vệ sinh và bảo quản các thiết bị spa
Giặt và là ủi khăn, ga giường
Pha chế các loại trà, nước uống phục vụ khách hàng
Hỗ trợ các nhân viên khác trong spa khi cần thiết
Tạp vụ spa thường làm việc theo ca, có thể là ca sáng, ca chiều hoặc ca gãy. Một số spa cũng có thể yêu cầu tạp vụ spa làm việc vào cuối tuần hoặc các ngày lễ tết. Tuy nhiên, hầu hết các spa đều có chế độ làm việc linh hoạt, tạo điều kiện cho nhân viên có thời gian nghỉ ngơi và chăm sóc gia đình.
Mức lương và cơ hội nghề nghiệp của tạp vụ Spa
Mức lương của tạp vụ spa thường không quá cao so với các ngành nghề khác, nhưng lại là một mức khởi điểm ổn định cho những người mới bắt đầu sự nghiệp hoặc những người đang tìm kiếm một công việc bán thời gian. Tại Việt Nam, mức lương trung bình của tạp vụ spa dao động từ 4 – 7 triệu đồng/tháng, tùy thuộc vào quy mô của spa, kinh nghiệm làm việc và khu vực địa lý.
Tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, mức lương có thể cao hơn, khoảng 5 – 8 triệu đồng/tháng.
Tại các tỉnh thành khác, các dịch vụ cung cấp tạp vụ spa như SONGANHHYG, HOANMYKLEAN, NHASACHDANANG, đang trả mức lương cho nhân viên tạp vụ thường thấp hơn, khoảng 3 – 6 triệu đồng/tháng.
Ngoài mức lương cơ bản, tạp vụ spa còn có thể nhận được các khoản phụ cấp như phụ cấp chuyên cần, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp ăn trưa, thưởng lễ tết,…
Cơ hội thăng tiến:
Nghề tạp vụ spa không chỉ dừng lại ở việc dọn dẹp và vệ sinh. Với sự chăm chỉ, nỗ lực và không ngừng học hỏi, bạn hoàn toàn có thể thăng tiến lên các vị trí cao hơn trong ngành spa.
Quản lý tạp vụ: Quản lý và giám sát công việc của các tạp vụ khác, đảm bảo chất lượng vệ sinh của spa.
Giám sát vệ sinh: Kiểm tra và đánh giá chất lượng vệ sinh của spa, đề xuất các biện pháp cải thiện.
Nhân viên lễ tân: Tiếp đón khách hàng, tư vấn dịch vụ, sắp xếp lịch hẹn.
Yêu cầu về bằng cấp và chứng chỉ:
Nghề tạp vụ spa không đòi hỏi bằng cấp cao. Tuy nhiên, nếu bạn có chứng chỉ về vệ sinh hoặc các kỹ năng liên quan đến spa, cơ hội tìm việc và thăng tiến của bạn sẽ cao hơn. Một số spa cũng có thể yêu cầu ứng viên có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực vệ sinh hoặc dịch vụ khách hàng.
Tóm lại, nghề tạp vụ spa là một công việc ổn định với mức lương khởi điểm hấp dẫn và nhiều cơ hội phát triển. Nếu bạn đam mê sự sạch sẽ, gọn gàng và muốn làm việc trong một môi trường năng động, hãy cân nhắc đến nghề tạp vụ spa.
Những kỹ năng cần thiết để trở thành tạp vụ Spa giỏi
Để trở thành một tạp vụ spa giỏi, bạn không chỉ cần có sức khỏe tốt và sự chăm chỉ mà còn cần phải trang bị cho mình những kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm cần thiết.
Kỹ năng chuyên môn:
Kỹ năng vệ sinh: Đây là kỹ năng cơ bản nhất mà bất kỳ tạp vụ spa nào cũng cần phải có. Bạn cần biết cách vệ sinh các bề mặt khác nhau như sàn nhà, tường, kính, đồ nội thất,… một cách hiệu quả và an toàn.
Sử dụng các dụng cụ và hóa chất vệ sinh an toàn: Tạp vụ spa thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất tẩy rửa, vì vậy bạn cần biết cách sử dụng chúng một cách an toàn để bảo vệ sức khỏe của bản thân và khách hàng.
Hiểu biết về các quy trình vệ sinh spa: Mỗi spa có thể có những quy trình vệ sinh riêng, vì vậy bạn cần nắm rõ các quy trình này để thực hiện công việc một cách chính xác và hiệu quả.
Kỹ năng bảo quản thiết bị spa: Một số spa có thể yêu cầu tạp vụ spa biết cách bảo quản các thiết bị spa như máy massage, máy xông hơi,…
Kỹ năng giặt là: Tạp vụ spa cũng có thể được yêu cầu giặt là khăn tắm, ga giường,…
Kỹ năng mềm:
Cẩn thận, tỉ mỉ: Công việc tạp vụ spa đòi hỏi sự cẩn thận và tỉ mỉ để đảm bảo không gian spa luôn sạch sẽ và gọn gàng.
Trung thực: Tạp vụ spa thường xuyên tiếp xúc với đồ dùng cá nhân của khách hàng, vì vậy tính trung thực là rất quan trọng.
Nhanh nhẹn: Tạp vụ spa cần phải làm việc nhanh nhẹn để hoàn thành công việc trong thời gian quy định.
Giao tiếp tốt: Tạp vụ spa có thể phải giao tiếp với khách hàng và nhân viên khác trong spa, vì vậy kỹ năng giao tiếp tốt là một lợi thế.
Khả năng làm việc độc lập và theo nhóm: Tạp vụ spa có thể phải làm việc độc lập hoặc theo nhóm tùy theo tình huống.
Chịu được áp lực công việc: Công việc tạp vụ spa có thể đòi hỏi bạn phải làm việc dưới áp lực cao, đặc biệt là vào những ngày cuối tuần hoặc lễ tết.
Các kỹ năng khác:
Tiếng Anh: Nếu bạn làm việc tại một spa có nhiều khách nước ngoài, kỹ năng tiếng Anh sẽ là một lợi thế lớn.
Kỹ năng sơ cứu: Biết cách sơ cứu cơ bản sẽ giúp bạn xử lý các tình huống khẩn cấp một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Nâng cao kỹ năng làm tạp vụ spa:
Để nâng cao kỹ năng làm tạp vụ spa, bạn có thể tham gia các khóa học đào tạo chuyên nghiệp hoặc học hỏi từ những đồng nghiệp có kinh nghiệm. Ngoài ra, bạn cũng nên thường xuyên cập nhật kiến thức về các sản phẩm và quy trình vệ sinh mới nhất.
Tóm lại: Kỹ năng là chìa khóa để trở thành một tạp vụ spa giỏi. Bằng cách trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết, bạn không chỉ hoàn thành tốt công việc mà còn có thể phát triển sự nghiệp của mình trong ngành spa.
Kinh nghiệm làm tạp vụ Spa
Để thành công trong bất kỳ công việc nào, kinh nghiệm thực tế luôn là một yếu tố quan trọng. Và nghề tạp vụ spa cũng không ngoại lệ. Những chia sẻ từ những người đã có kinh nghiệm làm tạp vụ spa sẽ giúp bạn có cái nhìn rõ nét hơn về công việc này, từ đó chuẩn bị tốt hơn cho sự nghiệp của mình.
Tổ chức công việc hiệu quả:
Lập kế hoạch làm việc: Lên kế hoạch chi tiết cho từng ngày, từng tuần, giúp bạn quản lý thời gian và công việc một cách hiệu quả.
Ưu tiên công việc: Xác định những công việc quan trọng và cần làm trước, tránh tình trạng bỏ sót hoặc làm không kịp.
Sử dụng công cụ hỗ trợ: Sử dụng các dụng cụ và hóa chất vệ sinh phù hợp để tiết kiệm thời gian và công sức.
Làm việc theo nhóm: Phối hợp với các đồng nghiệp để hoàn thành công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Giải quyết các tình huống khó khăn:
Khách hàng khó tính: Bình tĩnh lắng nghe ý kiến của khách hàng, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp hợp lý.
Sự cố vệ sinh: Xử lý các sự cố vệ sinh một cách nhanh chóng và chuyên nghiệp, đảm bảo không ảnh hưởng đến khách hàng và hoạt động của spa.
Mâu thuẫn với đồng nghiệp: Giao tiếp thẳng thắn và tôn trọng, tìm cách giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình.
Những điều thú vị khi làm tạp vụ spa:
Môi trường làm việc thoải mái: Spa thường có không gian đẹp, âm nhạc nhẹ nhàng, tạo cảm giác thư thái cho nhân viên.
Gặp gỡ nhiều người: Bạn có cơ hội gặp gỡ và giao tiếp với nhiều người khác nhau, từ khách hàng đến nhân viên, mở rộng mối quan hệ xã hội.
Học hỏi thêm về lĩnh vực spa: Bạn có thể học hỏi thêm về các dịch vụ spa, sản phẩm làm đẹp, chăm sóc sức khỏe,…
Những thách thức khi làm tạp vụ spa:
Công việc lặp đi lặp lại: Công việc tạp vụ spa có thể khá đơn điệu và lặp đi lặp lại, đòi hỏi bạn phải có sự kiên nhẫn và chịu khó.
Áp lực công việc cao: Vào những ngày cuối tuần hoặc lễ tết, spa thường đông khách, tạp vụ spa sẽ phải làm việc với cường độ cao hơn.
Tiếp xúc với hóa chất: Tạp vụ spa thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất tẩy rửa, có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe nếu không sử dụng đúng cách.
Lời khuyên từ những người có kinh nghiệm:
Luôn giữ thái độ tích cực: Thái độ tích cực sẽ giúp bạn vượt qua những khó khăn và hoàn thành tốt công việc.
Không ngừng học hỏi: Cập nhật kiến thức về các sản phẩm và quy trình vệ sinh mới nhất để nâng cao kỹ năng làm việc.
Yêu thích công việc: Khi bạn yêu thích công việc, bạn sẽ cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc hơn khi làm việc.
Kinh nghiệm làm tạp vụ spa là một hành trình học hỏi và trải nghiệm. Bằng cách lắng nghe những chia sẻ từ những người đi trước, bạn có thể rút ra những bài học quý giá cho bản thân và phát triển sự nghiệp của mình trong ngành spa.
Tuyển dụng tạp vụ Spa
Với sự phát triển không ngừng của ngành công nghiệp làm đẹp, nhu cầu tuyển dụng tạp vụ spa ngày càng tăng cao. Đây là một cơ hội việc làm hấp dẫn cho những người mới bắt đầu sự nghiệp hoặc những người đang tìm kiếm một công việc ổn định với môi trường làm việc thoải mái.
Các kênh tìm việc:
Các trang web tuyển dụng: Các trang web tuyển dụng lớn như VietnamWorks, CareerBuilder, JobStreet,… thường xuyên đăng tải các thông tin tuyển dụng tạp vụ spa từ các spa trên toàn quốc.
Mạng xã hội: Các nhóm và trang mạng xã hội về việc làm cũng là một kênh tìm việc hiệu quả. Bạn có thể tìm kiếm các bài đăng tuyển dụng tạp vụ spa hoặc đăng tải thông tin tìm việc của mình.
Giới thiệu trực tiếp: Nếu bạn có người quen làm việc trong ngành spa hoặc các dịch vụ cung cấp tạp vụ vệ sinh như HOANMYHYG, NHASACHHOANMY, hãy nhờ họ giới thiệu các cơ hội việc làm cho bạn.
Yêu cầu tuyển dụng:
Trình độ học vấn: Hầu hết các vị trí tạp vụ spa không yêu cầu trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, một số spa có thể yêu cầu ứng viên tốt nghiệp THCS hoặc THPT.
Kinh nghiệm: Một số spa có thể yêu cầu ứng viên có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực vệ sinh hoặc dịch vụ khách hàng. Tuy nhiên, cũng có nhiều spa sẵn sàng tuyển dụng những người chưa có kinh nghiệm và đào tạo họ.
Kỹ năng: Các kỹ năng cần thiết cho một tạp vụ spa bao gồm: kỹ năng vệ sinh, sử dụng các dụng cụ và hóa chất vệ sinh an toàn, cẩn thận, tỉ mỉ, trung thực, nhanh nhẹn, giao tiếp tốt,…
Sức khỏe: Tạp vụ spa cần có sức khỏe tốt để đáp ứng được cường độ công việc.
Quy trình ứng tuyển:
Nộp hồ sơ: Ứng viên cần chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ bao gồm: đơn xin việc, sơ yếu lý lịch, giấy khám sức khỏe, các văn bằng, chứng chỉ (nếu có).
Phỏng vấn: Sau khi vượt qua vòng sơ tuyển hồ sơ, ứng viên sẽ được mời đến phỏng vấn trực tiếp với nhà tuyển dụng. Trong buổi phỏng vấn, ứng viên cần thể hiện sự tự tin, chuyên nghiệp và đam mê với công việc.
Thử việc: Nếu thành công trong buổi phỏng vấn, ứng viên sẽ được nhận vào làm thử việc trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời gian thử việc, ứng viên cần chứng minh khả năng làm việc và hòa nhập với môi trường làm việc của spa.
Chuẩn bị cho buổi phỏng vấn:
Tìm hiểu về spa: Tìm hiểu kỹ về spa mà bạn ứng tuyển, bao gồm các dịch vụ, quy mô, văn hóa công ty,…
Chuẩn bị câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp: Một số câu hỏi thường gặp trong phỏng vấn tạp vụ spa bao gồm:
Tại sao bạn muốn làm tạp vụ spa?
Bạn có kinh nghiệm gì trong lĩnh vực vệ sinh hoặc dịch vụ khách hàng không?
Bạn có những kỹ năng gì phù hợp với công việc tạp vụ spa?
Bạn có sẵn sàng làm việc theo ca và vào cuối tuần không?
Mức lương mong muốn của bạn là bao nhiêu?
Ăn mặc lịch sự và gọn gàng: Tạo ấn tượng tốt với nhà tuyển dụng bằng cách ăn mặc lịch sự và gọn gàng.
Đến đúng giờ: Thể hiện sự chuyên nghiệp và tôn trọng thời gian của nhà tuyển dụng bằng cách đến đúng giờ hoặc sớm hơn một chút.
Tóm lại: Tuyển dụng tạp vụ spa đang là một thị trường việc làm sôi động với nhiều cơ hội hấp dẫn. Bằng cách chuẩn bị kỹ lưỡng và thể hiện tốt trong quá trình ứng tuyển, bạn hoàn toàn có thể tìm được một công việc tạp vụ spa phù hợp với bản thân.
Đào tạo tạp vụ Spa
Mặc dù không yêu cầu bằng cấp cao, nhưng việc tham gia các khóa đào tạo tạp vụ spa chuyên nghiệp sẽ giúp bạn nâng cao kỹ năng, kiến thức và tự tin hơn trong công việc. Điều này không chỉ giúp bạn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn mở ra nhiều cơ hội thăng tiến trong tương lai.
Các hình thức đào tạo:
Khóa học ngắn hạn: Các khóa học ngắn hạn thường kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, tập trung vào các kỹ năng cơ bản như vệ sinh, sử dụng hóa chất, giao tiếp và ứng xử với khách hàng.
Chương trình đào tạo dài hạn: Các chương trình đào tạo dài hạn có thể kéo dài từ vài tháng đến một năm, cung cấp kiến thức chuyên sâu hơn về quy trình vệ sinh spa, quản lý đồ dùng, bảo quản thiết bị và thậm chí cả kỹ năng massage cơ bản.
Đào tạo tại chỗ: Một số spa lớn có thể tổ chức các chương trình đào tạo nội bộ cho nhân viên mới, giúp họ làm quen với môi trường làm việc và quy trình vận hành của spa.
Nội dung đào tạo:
Kỹ năng vệ sinh: Kỹ thuật vệ sinh các khu vực khác nhau trong spa, sử dụng hóa chất tẩy rửa an toàn và hiệu quả, bảo quản dụng cụ vệ sinh.
Quy trình vệ sinh spa: Các bước vệ sinh phòng dịch vụ, khu vực chung, nhà vệ sinh, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh cao nhất.
Quản lý đồ dùng: Kiểm kê, sắp xếp và bảo quản đồ dùng vệ sinh, vật dụng tiêu hao, đảm bảo luôn đủ dùng.
Bảo quản thiết bị: Vệ sinh và bảo dưỡng các thiết bị spa như máy massage, máy xông hơi, giúp kéo dài tuổi thọ thiết bị.
Giao tiếp và ứng xử: Kỹ năng giao tiếp lịch sự và chuyên nghiệp với khách hàng, đồng nghiệp, xử lý các tình huống phàn nàn hoặc sự cố.
An toàn lao động: Biện pháp phòng tránh tai nạn lao động, sử dụng hóa chất an toàn, sơ cứu cơ bản.
Lợi ích của việc tham gia đào tạo:
Nâng cao kỹ năng và kiến thức: Đào tạo giúp bạn nắm vững các kỹ năng và kiến thức cần thiết để làm việc hiệu quả và chuyên nghiệp hơn.
Tăng cơ hội việc làm: Chứng chỉ đào tạo là một lợi thế cạnh tranh khi ứng tuyển vào các vị trí tạp vụ spa, đặc biệt là tại các spa lớn và uy tín.
Mở rộng cơ hội thăng tiến: Với kiến thức và kỹ năng vững vàng, bạn có thể thăng tiến lên các vị trí cao hơn như quản lý tạp vụ hoặc giám sát vệ sinh.
Tự tin hơn trong công việc: Đào tạo giúp bạn tự tin hơn khi thực hiện nhiệm vụ, giao tiếp với khách hàng và xử lý các tình huống phát sinh.
Tìm kiếm các khóa đào tạo:
Các spa lớn: Một số spa lớn có thể tổ chức các khóa đào tạo nội bộ hoặc hợp tác với các trung tâm đào tạo để nâng cao trình độ cho nhân viên.
Các dịch vụ tạp vụ: Các dịch vụ tạp vụ lớn chuyên nghiệp như HasonHygiene, SONGANHHYG đều đào tạo nhân viên về nghiệp vụ làm sạch spa trong 1-2 ngày trước khi cung ứng cho khách hàng.
Môi trường làm việc của tạp vụ Spa
Môi trường làm việc của tạp vụ Spa: Hòa mình vào không gian thư thái
Không gian làm việc của tạp vụ spa thường được đánh giá là khá thoải mái và dễ chịu, khác biệt so với nhiều ngành nghề khác. Điều này đến từ đặc thù của ngành dịch vụ làm đẹp, nơi mà không gian và bầu không khí đóng vai trò quan trọng trong việc mang lại trải nghiệm thư giãn cho khách hàng.
Không gian làm việc:
Sạch sẽ và thơm mát: Spa luôn được chú trọng vệ sinh và giữ gìn sạch sẽ, tạo cảm giác dễ chịu cho cả nhân viên và khách hàng. Hương thơm tinh dầu thoang thoảng cũng góp phần tạo nên bầu không khí thư giãn.
Thiết kế đẹp mắt: Nhiều spa được đầu tư thiết kế nội thất sang trọng, hài hòa, tạo cảm giác thư thái và sang trọng.
Âm nhạc nhẹ nhàng: Âm nhạc êm dịu thường được sử dụng trong spa, giúp giảm căng thẳng và tạo cảm giác thư giãn cho mọi người.
Đồng nghiệp:
Thân thiện và hỗ trợ: Môi trường làm việc trong spa thường khuyến khích sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhân viên.
Chuyên nghiệp: Các nhân viên spa thường được đào tạo bài bản về kỹ năng chuyên môn và giao tiếp, tạo nên một môi trường làm việc chuyên nghiệp.
Văn hóa công ty:
Tôn trọng và công bằng: Các spa thường đề cao giá trị tôn trọng và công bằng đối với tất cả nhân viên, không phân biệt vị trí công việc.
Chăm sóc sức khỏe nhân viên: Nhiều spa có các chương trình chăm sóc sức khỏe cho nhân viên như giảm giá dịch vụ, khám sức khỏe định kỳ,…
Cơ hội phát triển: Các spa thường tạo điều kiện cho nhân viên tham gia các khóa đào tạo, nâng cao kỹ năng và phát triển sự nghiệp.
Chế độ đãi ngộ:
Lương và thưởng: Ngoài mức lương cơ bản, tạp vụ spa còn có thể nhận được các khoản thưởng dựa trên hiệu suất làm việc và các dịp lễ tết.
Bảo hiểm: Nhân viên tạp vụ spa thường được tham gia các loại bảo hiểm theo quy định của pháp luật như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội,…
Nghỉ phép: Nhân viên được hưởng các chế độ nghỉ phép theo quy định của pháp luật và của spa.
Các chế độ khác: Tùy từng spa, nhân viên có thể được hưởng thêm các chế độ đãi ngộ khác như phụ cấp ăn trưa, đồng phục, giảm giá dịch vụ spa,…
Môi trường làm việc của tạp vụ spa thường mang lại cảm giác thoải mái, thư thái và chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, nhân viên còn được hưởng các chế độ đãi ngộ hấp dẫn và có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Nếu bạn đang tìm kiếm một công việc ổn định với môi trường làm việc tích cực, tạp vụ spa có thể là một lựa chọn phù hợp.
Những khó khăn và thách thức khi làm tạp vụ Spa
Làm tạp vụ Spa: Đối mặt với những thử thách không ngờ
Dù mang lại nhiều lợi ích về môi trường làm việc và cơ hội phát triển, nghề tạp vụ spa cũng không tránh khỏi những khó khăn và thách thức riêng. Việc hiểu rõ những thử thách này sẽ giúp bạn chuẩn bị tâm lý tốt hơn và tìm ra cách đối phó hiệu quả.
Công việc lặp đi lặp lại:
Tính chất công việc: Vệ sinh, dọn dẹp là những công việc mang tính chất lặp đi lặp lại hàng ngày, có thể gây nhàm chán và giảm động lực làm việc.
Giải pháp:
Tìm kiếm sự đa dạng trong công việc: Chủ động tìm hiểu và hỗ trợ các công việc khác trong spa như chuẩn bị phòng, pha chế đồ uống,…
Tạo động lực cho bản thân: Nhắc nhở bản thân về tầm quan trọng của công việc, sự sạch sẽ và gọn gàng mà bạn tạo ra góp phần mang lại trải nghiệm tốt cho khách hàng.
Học hỏi và phát triển: Tham gia các khóa đào tạo để nâng cao kỹ năng, mở rộng kiến thức và tìm kiếm cơ hội thăng tiến.
Áp lực công việc cao:
Thời gian cao điểm: Vào những ngày cuối tuần, lễ tết hoặc mùa cao điểm du lịch, spa thường đông khách, đòi hỏi tạp vụ spa phải làm việc với cường độ cao hơn.
Yêu cầu về chất lượng: Spa luôn đặt tiêu chuẩn cao về vệ sinh và sạch sẽ, tạo áp lực cho tạp vụ spa phải luôn đảm bảo chất lượng công việc.
Giải pháp:
Rèn luyện sức khỏe: Duy trì một lối sống lành mạnh, tập thể dục đều đặn để có sức khỏe tốt, đáp ứng được cường độ công việc cao.
Quản lý thời gian hiệu quả: Lên kế hoạch làm việc rõ ràng, ưu tiên các công việc quan trọng, tránh lãng phí thời gian.
Làm việc nhóm: Hợp tác và hỗ trợ đồng nghiệp để hoàn thành công việc nhanh chóng và hiệu quả.
Yêu cầu hỗ trợ: Nếu cảm thấy quá tải, hãy mạnh dạn trao đổi với quản lý để nhận được sự hỗ trợ cần thiết.
Tiếp xúc với hóa chất:
Nguy cơ sức khỏe: Tạp vụ spa thường xuyên tiếp xúc với các loại hóa chất tẩy rửa, có thể gây kích ứng da, dị ứng hoặc các vấn đề sức khỏe khác nếu không sử dụng đúng cách.
Giải pháp:
Sử dụng đồ bảo hộ: Đeo găng tay, khẩu trang, kính bảo hộ khi tiếp xúc với hóa chất.
Tuân thủ hướng dẫn sử dụng: Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi sử dụng bất kỳ loại hóa chất nào.
Vệ sinh cá nhân sạch sẽ: Rửa tay sạch sẽ sau khi tiếp xúc với hóa chất, tắm rửa và thay quần áo sau khi làm việc.
Kiểm tra sức khỏe định kỳ: Đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe liên quan đến việc tiếp xúc với hóa chất.
Đối mặt với khách hàng khó tính:
Tình huống: Đôi khi, tạp vụ spa có thể gặp phải những khách hàng khó tính, đòi hỏi cao hoặc có thái độ không hợp tác.
Giải pháp:
Bình tĩnh và lắng nghe: Lắng nghe ý kiến của khách hàng một cách bình tĩnh và tôn trọng, không tranh cãi hoặc phản ứng thái quá.
Thể hiện sự chuyên nghiệp: Giải quyết vấn đề một cách chuyên nghiệp và hiệu quả, thể hiện sự quan tâm đến khách hàng.
Báo cáo quản lý: Nếu không thể tự giải quyết vấn đề, hãy báo cáo với quản lý để được hỗ trợ.
Nghề tạp vụ spa không chỉ có những mặt tích cực mà còn đi kèm với những thử thách riêng. Bằng cách hiểu rõ và chuẩn bị sẵn sàng đối mặt với những khó khăn này, bạn sẽ có thể vượt qua chúng và thành công trong công việc. Hãy luôn giữ thái độ tích cực, không ngừng học hỏi và hoàn thiện bản thân để trở thành một tạp vụ spa chuyên nghiệp và được đánh giá cao. Nếu bạn có nhu cầu tìm việc trong ngành tạp vụ spa, có thể liên hệ với các dịch vụ tạp vụ để được đi làm.
congtyvesinhsonganh.com/tap-vu-spa-bat-mi-cac-goc-khuat-t...
Từ nữ tính đến gai góc: Kết hợp sự nữ tính với phong cách sắc sảo trong thời trang nữ Thời trang là một công cụ mạnh mẽ cho phép các cá nhân thể hiện cá tính và phong cách độc đáo của mình. Trong thế giới ngày nay, phụ nữ đang phá vỡ ranh giới và bất chấp định kiến, thể hiện sức mạnh và sự độc lập thông qua các lựa chọn thời trang của họ. Một xu hướng thú vị đã xuất hiện là sự kết hợp giữa nét nữ tính nữ tính với một chút góc cạnh, sắc sảo. Đã qua rồi cái thời mà sự nữ tính chỉ gắn liền với những gam màu nhẹ nhàng, ren tinh tế và họa tiết in hoa. Phụ nữ giờ đây có thể dễ dàng pha trộn những yếu tố nữ tính truyền thống này với những món đồ sắc sảo hơn, tạo ra một phong cách vừa táo bạo vừa mạnh mẽ. Một cách để đạt được vẻ ngoài này là kết hợp các loại vải mỏng manh như voan hoặc lụa với các chất liệu thô hơn như da hoặc denim. Kết hợp một chiếc váy hoa bồng bềnh với áo khoác da ngay lập tức tạo thêm nét sắc sảo cho một bộ trang phục nữ tính khác. Sự kết hợp này thể hiện tính hai mặt của người phụ nữ hiện đại – quyết liệt và tự tin nhưng vẫn tôn lên vẻ nữ tính của mình. Một xu hướng phổ biến trong sự kết hợp các phong cách này là sự kết hợp của bốt chiến đấu vào các bộ trang phục nữ tính. Những đôi bốt này, được biết đến với tính chất chắc chắn và mạnh mẽ, mang lại nét nổi loạn cho bất kỳ trang phục nào. Cho dù đó là kết hợp chúng với một chiếc váy ren diềm xếp nếp hay váy hoa, bốt chiến đấu tạo thêm một góc cạnh bất ngờ có thể khiến người phụ nữ cảm thấy mạnh mẽ và quyền lực. Phụ kiện cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện vẻ ngoài này. Xếp lớp những chiếc vòng cổ vàng tinh xảo hoặc vòng tay xếp chồng lên nhau có thể tạo thêm nét nữ tính cho trang phục. Tuy nhiên, việc lựa chọn những món đồ sắc sảo hơn như vòng cổ có gai hoặc thắt lưng nạm đinh có thể biến đổi phong cách tổng thể ngay lập tức, tạo ra sự cân bằng hoàn hảo giữa mềm mại và dữ dội. Một cách khác để nắm lấy sự kết hợp giữa nữ tính và sắc sảo là trang điểm. Đôi môi đậm, sẫm màu kết hợp với ánh mắt mềm mại, tự nhiên có thể tạo nên sự nổi bật và tạo cảm giác được trao quyền. Thử nghiệm các kỹ thuật trang điểm khác nhau, chẳng hạn như kẻ mắt có cánh sắc nét hoặc mắt khói, cho phép phụ nữ thể hiện cá tính và khuếch đại các yếu tố sắc sảo trong lựa chọn thời trang của họ. Những người nổi tiếng và biểu tượng thời trang như Rihanna và Cara Delevingne đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ biến xu hướng này. Họ đã dễ dàng làm chủ nghệ thuật kết hợp trang phục nữ tính truyền thống với những món đồ sắc sảo hơn, truyền cảm hứng cho phụ nữ trên khắp thế giới thử nghiệm phong cách của riêng họ. Tóm lại, sự kết hợp giữa nét nữ tính nữ tính với nét góc cạnh, sắc sảo trong thời trang nữ là một xu hướng đã đạt được đà phát triển trong những năm gần đây. Nó cho phép phụ nữ thoát khỏi những kỳ vọng của xã hội và nắm lấy con người thật của họ, thể hiện sức mạnh và sự độc lập thông qua các lựa chọn thời trang của họ. Bằng cách cân bằng các chất liệu mỏng manh và chắc chắn, kết hợp bốt chiến đấu và phụ kiện sắc sảo, đồng thời thử nghiệm cách trang điểm, phụ nữ có thể tạo ra một phong cách độc đáo vừa mạnh mẽ vừa sành điệu. Vì vậy, các quý cô, đã đến lúc nắm lấy sự nổi loạn bên trong của bạn và trộn và kết hợp những món đồ nữ tính và cá tính đó để tạo ra một phong cách thời trang hoàn toàn của riêng bạn.Tìm Hiểu: phối đồ nữ cá tính#phối_đồ_nữ_cá_tính, #ThếGiớiThờiTrang, #Thế_Giới_Thời_Trang, #thegioithoitrang, #thegioithoitrang, #thờitranghànquốc, #thời_trang_hàn_quốc
-Tới tháng nầy rồi mà trời còn chưa chịu mưa, nóng điên cả người.
Maurice vừa xếp dọn giấy tờ ở bàn vừa khe khẽ cằn nhằn một mình. Trên trần, tiếng quạt chạy không ngừng thế mà mọi người vẫn có cảm tưởng như chẳng có quạt hay quạt chỉ gởi gió nóng xuống mà thôi. Đệm thêm vào giọng nhạc trầm buồn ấy là tiếng lách tách của mấy cái máy chữ từ các phòng bên vọng lại.
Tất cả mọi âm thanh đều tầm thường u uất như cuộc đời của người công chức ít lương.
Maurice vẫn thù ghét nhất là buổi trưa vì trời càng về trưa càng nóng mà tí nữa còn phải trở lại sở làm việc nghe lại những âm thanh u uất cũ. Nhìn sang phòng bên qua hai cánh cửa không đóng Maurice thấy ông bạn Thiếu tá Georges đang cúi gằm xuống đống hồ sơ, như chẳng hề có một ý niệm gì về thời gian. Không biết đến cái phút thần tiên nhất của những kẻ phải sống giam mình trong bốn bức tường : Cái phút kéo ghế ra về,
- Georges là thằng ngốc.
Chẳng nghe tiếng bạn trả lời, Maurice nói thêm một lần nữa, nhưng lại cũng như lần trước, người bạn vẫn lầm lì cúi xuống mấy trang giấy đầy những gạch và chữ.
- Georges là thằng ngốc.
Lần nầy Maurice hét to lên làm cho Georges phải ngẩng đầu quay nhìn sang phía bạn.
- Mầy có nghe tao nói gì không ?
- Có nghe đại khái...
Georges trả lời cho được lòng bạn rồi lại cúi xuống định viết nốt, nhưng Maurice đã đến bên cạnh giật lấy cái bút trong tay bạn.
- Thôi xin ông, ông có biết giùm con mấy giờ rồi không ?
Georges lật tay áo nhìn vào chiếc đồng hồ cũ kỹ, nhăn mặt nói để tự chữa lỗi.
- Mải làm việc quên cả ngày giờ, trưa thật nhỉ.
- Vâng, trưa thật, thế bây giờ thì mầy chịu cho người gác đóng cửa về với gia đình họ đấy chứ ?
Rồi không để cho bạn kịp trả lời Maurice nói tiếp ngay :
- Hélène vừa giới thiệu cho tao một cô gái Việt rất thuần túy. Hôm nọ đi ngang hiệu sách, gặp hai người đang chọn sách thế là tao phóng vào...
- Chuyện của mầy có dính gì đến tao ?
- Nàng khá xinh, tao mời nàng với Hélène đi ăn, nhưng sáng nay Hélène kêu bận, hẳn phải đi theo hầu vị hôn phu, cô ta đợi đến lúc nãy mới điện thoại bảo xin lỗi. Còn có mình tao, sợ không vui nên tao muốn mầy cùng đi...
Nói đến đây Maurice hơi tiu nghỉu nhận thấy bạn có vẻ hờ hững với câu truyện của mình. Georges vẫn cúi xuống lẩm nhẩm lần theo mấy trang giấy như có ý tiếc rẻ muốn tiếp tục làm cho xong công việc.
Con người ấy lạnh lùng đã nổi tiếng, chẳng biết gì ngoài sự làm việc, bạn bè chỉ có mình Maurice là thân nhất.
Từ độ đổi sang Việt Nam, chưa ai trông thấy Georges đi chơi la cà như những quân nhân xa xứ và xa gia đình khác. Nếu Maurice không bắt buộc, thì chắc hẳn Georges cũng chưa biết thành phố Sàigòn ra thế nào,
Mặc dầu đôi bạn rất khác tính nhau, trong câu truyện luôn luôn có những điểm bất đồng về quan niệm sống, về cuộc chiến tranh giữa hai nước Việt Pháp, về những thành phần của chính phủ Pháp, Georges vẫn giữ lập trường của mình, chàng tin rằng rồi đây nước Pháp phải trả lại sự tự do cho dân tộc Việt Nam và cuộc chiến tranh vô nghĩa lý nầy phải chấm dứt. Trái lại, Maurice cứ nhất định cãi là nước Việt Nam còn non chưa nên để độc lập hoàn toàn, nếu có độc lập thì cũng chỉ có thể đứng trong khối Liên-hiệp Pháp. Georges đồng ý với Mendès France trong khi bạn chàng không ngớt chửi.
- Sao lại đi giao vận mệnh nước nhà cho một tên Do Thái định đoạt, chỉ nhìn cái mũi Do Thái của hắn ta không thôi mà đã phát ghét.
Thật ra Maurice làm Đại úy cũng như người khác làm nghề súc chai. Đấy chỉ là một phương tiện kiếm ra đồng lương hằng tháng
Đối với Maurice, sống là ăn là chơi, là tận hưởng, như thế mới khỏi phụ lòng tạo hóa.
Georges không thế, giàu tình cảm bên trong nhưng bên ngoài khó ai có thể đoán hiểu.
- Để rồi mầy xem, cô nàng duyên dáng vô cùng, cho mầy mở con mắt mầy ra. Ngộ nhỡ mai kia máy bay mầy có bị trúng đạn, ít nhất trước khi chết mầy cũng biết thế nào là cái duyên của một người đàn bà. Nam-tào Bắc-đẩu có hỏi thăm còn biết đường mà trả lời.
Georges bật cười sau câu nói khôi hài dí dỏm của bạn.
- Ù' nhỉ, mầy nói đúng.
Mà Maurice nói đúng thật, Georges đã từng gặp rất nhiều người đẹp, nhưng duyên dáng như lời Maurice tả thì chàng chưa được biết, Georges cảm thấy vui lây cái vui của bạn.
- Mầy nhận lời đi ăn cơm tối nay nhé, biết đâu hai người rồi sẽ hợp nhau chứ du côn du kề như tao chắc sẽ bị loại sớm ?
Georges nhận lời hắn đi, chàng tò mò muốn nhìn mặt cô bạn gái duyên dáng của Maurice xem con người ấy ra làm sao. Từ trước đến giờ chàng đã có nhiều lần bị thất vọng, sau những cuộc tìm kiếm, những lời giới thiệu nồng hậu như thế mà lần nào rồi cũng chỉ mang đến một sự thật rất mỉa mai. Phần đông cô nào rồi cũng rỗng tuếch như căn nhà chưa có chủ, chưa có cửa ngõ, bàn ghế, và rốt cuộc lại người đàn bà nào cũng giống hệt nhau. Cô gái Togolais hay cô gái Thụy Điển cũng sáng mắt lên trước những món nữ trang óng ánh. Mũi cô nào cũng phập phồng mỗi khi đi ngang cửa hàng nước hoa.
Hôm nay trước sự ngần ngại của bạn làm Georges hơi ngạc nhiên. Tuy rằng chàng đã sẵn sàng đón đợi một lần thất vọng nữa, nhưng biết đâu, biết đâu. Chàng đang muốn tìm hiểu dân tộc Việt-Nam, một dân tộc mà Georges có ngay thiện cảm từ khi bước xuống máy bay. Lúc thoạt nhìn những đôi mắt xênh xếch, những mái tóc cứng tua tủa, những tấm áo dài tha thướt. Nhất là ánh nắng mặt trời mỗi sáng mở cửa sổ như mỗi mùa xuân đang lên. Thế mà tại cái tính lầm lì, tính say mê công việc, và sợ bị thất vọng vì đã quá nhiều lần thất vọng, nên sang Việt Nam từ mấy tháng nay, Georges vẫn chưa gặp một cơ hội nào thuận tiện để làm quen với những người dân Việt.
♣
- Hắn đến đấy, cô cho phép tôi ra đón nhé.
Người thiếu nữ gật đầu nhìn theo bước chân của Maurice đang đi khuất vào bóng tối. Một cảm giác hoang mang vừa ngượng nghịu và tò mò, nàng bằng lòng đi ăn hôm nay, bằng lòng gặp Georges, không phải vì một lý do nào khác mà chỉ vì nghe Maurice ca ngợi ngay từ hôm đầu tiên rằng có người bạn rất thông minh. Tất cả đều công nhận rằng đó là người thông minh nhất phòng tham mưu không quân của Pháp ở tại Sàigòn bây giờ.
Sau ba năm sang học ở Pháp, sống chung đụng với người Pháp, Thiên Nga vẫn cảm thấy không thể, hay chưa có thể chịu nổi những sự bộc lộ trong cảm tình ngôn ngữ. Nàng cho rằng cái gì kém phần kín đáo đều kém phần sâu sắc, làm sao thông cảm được, và Thiên Nga vẫn tự đặt câu hỏi, đông tây có thể nào gặp nhau chăng ?
Nhất là mỗi khi nghe kể lại những giai thoại trong thời chiến tranh vừa qua mà cha con vợ chồng cũng giành giựt nhau một miếng thịt, một phần rau. Lại thêm loại tình xác thịt xảy ra giữa hai người đồng giống mà lịch sử vẫn gán cho nữ thi sĩ Hy Lạp Sappho ở Lesbos với các thanh niên Hy Lạp là những kẻ đã bày ra trước nhất loại tình cảm mà tôn giáo nào cũng dành riêng mấy trang kinh sách để ngăn cấm. Một tâm hồn Á đông chịu sao cho nổi.
Muốn giấu sự ngượng nghịu, Thiên Nga quay mặt vào trong chăm chú nhìn mấy bức tranh hoạt họa bằng mực đen treo trên góc tường. Mãi đến lúc có tiếng giày xào xạc nghiến lên sỏi và tiếng nói cười của đôi bạn đang vào gần đến cửa, người thiếu nữ mới quay ra.
- Xin giới thiệu với cô Thiên Nga đây là Thiếu tá Georges bạn tôi, còn đây là cô Thiên Nga một loại đại điểu xinh đẹp mà chúng ta thường hay chạy theo nhìn mỗi khi đi dạo trên những bờ hồ ở Âu châu.
Mọi người đều mỉm cười vì câu giới thiệu kiểu cách, và Maurice được thể nói tiếp trong khi Thiên Nga và Georges đưa tay ra bắt tay nhau.
- Lạy trời cho chúng ta sẽ được một buổi họp mặt vui vẻ hôm nay.
- Có thế mà ông Đại úy của tôi cũng phải lạy trời sao ?
- Chứ không ư ? Cô Thiên Nga vừa giảng cho tao nghe câu ngạn ngữ : «Một cuộc uống rượu hay một cuộc nói truyện cũng đều có định trước ». Phải không cô ?
- Ai định mới được chứ ? – Georges lại hỏi.
- Trời chứ còn ai nữa. Mày lại sắp lên cơn gàn rồi đấy.
- Thật sao cô Thiên Nga, nếu thật thế thì hay quá, tôi chỉ sợ Maurice sang đây lâu rồi lại đâm ra «fataliste ». Những kẻ mới vào đạo bao giờ cũng quá hơn người đạo giòng....
- Thôi đi, ông đang sắp phá con rồi đấy.
Nói xong Maurice xin lỗi để sang phòng trong pha rượu. Vắng bạn, Georges bỗng thấy mất hết can đảm, người thiếu nữ im lặng không biết phải nói gì, nàng cúi nhìn cốc nước lấy ngón tay dí xuống bàn vẽ lăng nhăng để giấu vẻ ngượng ngùng. Thiên Nga biết rằng người đàn ông đang theo dõi từng cử chỉ của mình, ý nghĩ làm nàng càng thêm lúng túng.
Georges mỉm cười, chàng bắt đầu trấn tĩnh lại, và bắt đầu đổi cái nhìn hỗn hợp với muôn nghìn ý nghĩ qua cái nhìn rắn chắc của một nhà giải tích học, không biết nên đặt nàng vào giai cấp nào cho đúng.
Đồng ý với bạn, Georges công nhận rằng người thiếu nữ nầy khá xinh, không phải cái loại nhan sắc búa rìu nghĩa là ai nhìn thấy như bị búa giáng vào mặt. Georges đã chia ra mấy loại nhan sắc, loại búa rìu, loại nước lạnh tức là nhìn vào ta chẳng có cảm giác gì cả, loại thứ ba là loại nhan sắc tự vị. Loại nầy ban đầu mới nhìn thì chưa thấy gì nhưng càng về sau càng thắm thiết, như khi tra tự vị rồi mình mới hiểu hết nghĩa. Đưa ra thảo luận với các bạn có người xin kể thêm một loại nữa là nhan sắc «ống giác ». Nó như cái ống giác hay như loại đỉa nó gặp ai thì nó xoắn vào nó hút lấy da thịt. Georges chưa biết nên đặt Thiên Nga vào loại nào, chắc phải đợi đưa ra thảo luận với Maurice.
Trông nàng giống như người miền núi, xứ Mông Cổ, mái tóc chải cao để lộ chiếc cổ áo cũng rất cao, thòi ra một chút gáy với mấy sợi tóc bướng bỉnh lòa xòa, mặt dài, nước da nâu, lối trang điểm nhẹ nhàng, quả thật nàng không phản bội với cái tên. Nhìn nàng cũng có gì thanh thoát như những con thiên nga. Đặc biệt nhất là đôi mắt xếch hẳn lên, đôi mắt của giống Mông Cổ, cái kiểu mắt nầy đã làm cho người phụ nữ Tây phương mỗi ngày tốn bao nhiêu thì giờ để vẽ cho đúng. Màu đen của ánh mắt ngời lên dưới ánh đèn đêm, cả người nàng bị đôi mắt dành hết.
Georges gật gù, bằng lòng người bạn, ít nhất cũng phải có một lần Maurice và chàng đồng ý với nhau. Tuy vẫn chưa có ai lên tiếng, nhưng Georges cảm thấy có gì thoải mái dễ chịu vô cùng, cái cảm giác mới vừa tắm ở bể lên một chiều hè đẹp trời, nơi quê hương đang hòa với cái cảm giác khi nhìn chiếc bánh đặc biệt của mẹ làm cho các con, riêng những ngày chủ nhật, ăn vào sẽ ngon lành biết mấy.
Không khí trở nên lành mạnh hiền hòa, thứ không khí mà từ lâu lắm Georges chưa được thở, từ khi lập gia đình, từ khi yêu, từ khi ra đời. Thiên Nga mãi đến giờ vẫn chưa thôi dí tay xuống bàn gạch lên những nét vu vơ.
Chiếc áo màu xanh phơn phớt với những nét nhằng nhịt qua lại rất lập thể bó sát lấy tấm thân, lần thứ nhất Georges có dịp nhìn gần một chiếc áo dài của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xinh quá làm Georges cảm thấy hơi lo ngại, liệu nhan sắc có chịu đi đôi với sự thông minh, tính nết hiền hậu hay là cô thiếu nữ nầy cũng sẽ giống như một hình ảnh chàng đã gặp ở Thụy Sĩ. Biết đâu Thiên Nga cũng giống như cô gái ấy, xinh đẹp vô cùng mà đần độn cũng vô cùng. Hay biết đâu nàng lại chẳng giống như Monique, vợ chàng, rất đẹp và rất không hiền chút nào.
- Ô hay, từ nãy đến giờ chẳng nghe ai nói gì cả.
Maurice ngơ ngác hỏi, chàng cố đứng một lúc ở cửa với khay rượu trong tay, đợi lắng nghe hai người nói truyện nhưng chẳng nghe được câu nào. Maurice nghĩ thầm hai kẻ nầy mà không trở nên đôi bạn thì chàng xin đi tu và nếu họ ở chung với nhau một nhà thì chắc là láng giềng sẽ bằng lòng lắm, vì khỏi bị những câu truyện ồn ào phá quấy. Maurice không như thế, tính chàng thích vui nhộn, thích hoạt động, ghét suy nghĩ, ghét cuộc sống phức tạp, nội tâm. Châm ngôn của con người ấy là : «Hôm nay biết hôm nay, ngày mai ra sao thì chờ ngày mai đến hẵng hay».
- Nào cô Thiên Nga uống đi chứ, và Thiếu tá của tôi nữa, xong ta còn bàn xem nên đi ăn chỗ nào cơm Tàu hay cơm Việt, gần sông nước hay vào Chợ Lớn.
- Chịu thôi, đừng hỏi tôi, tôi chẳng bao giờ có ý kiến gì đâu.
Mãi bây giờ mới nghe Thiên Nga lên tiếng. Có Maurice ra, Georges như được thêm tiếp viện, chàng không còn ngại ngùng nữa. Georges mỉm cười nghĩ thầm, cô nầy có rất nhiều em nhỏ ở nhà hay sao mà nghe giọng nói nũng nịu như trẻ con. Georges cũng tinh nghịch bắt chước nhắc lại câu nói của Thiên Nga để trốn cái phần việc phải chọn hiệu ăn mà quả thật chàng không biết gì cả.
Thiên Nga hiểu ngay người ấy muốn phá mình, nàng ngước nhìn lên Georges, cái nhìn thẳng thắn, cái nhìn thứ nhất...
Người thiếu tá bỗng cảm thấy có gì lành lạnh sau lưng, chàng cắn môi đón nhận cái nhìn như kẻ phạm tội đón nhận bản án. Làm sao giảng ra được những mâu thuẫn trong con người ấy, rất anh dũng mà cũng rất yếu đuối.
Georges đưa tay ra níu lấy thành ghế. Cử chỉ lạ lùng bắt Thiên Nga lại phải ngước nhìn lên một lần nữa, cái nhìn thứ hai ...
Lần nầy thì yên lòng lắm rồi, Thiên Nga không thể nào giống cô gái Thụy Sĩ năm xưa, người đàn ông tin chắc như thế, bao nhiêu dè dặt ngập ngừng được quét sạch nhờ cái nhìn thứ hai ấy. Georges hỏi Thiên Nga giọng rất tự nhiên như hai người quen nhau đã từ lâu.
- Maurice bảo cô mới về, cô kể truyện quê hương cho tôi nghe đi.
- Hai tháng rồi, tin tức của tôi đã cũ rích, ông ra mua báo Le Monde máy bay mà đọc có hơn không?
- Không sao, tôi có hỏi thăm sức khỏe của ông Coty đâu, tôi chỉ muốn hỏi xem những hiệu sách ở hai bên bờ sông Seine có còn để cho người được tự do đọc nữa không ?
Thiên Nga lắc đầu.
- Chỉ cái loại sách vớ vẩn rẻ tiền người ta mới chịu để trần ra, còn những sách nào hơi quý thì các ngài bọc giấy bóng dán kín đầu đuôi lại, mất cả thiện cảm.
Thế là biết rồi, Georges không cần hỏi sang câu thứ hai nữa, cô bé nầy có thể làm bạn được. Georges lựa một câu hỏi rất tầm thường, nhưng với câu trả 1ời chàng có thể đoán được ngay đối phương ở vào loại người nào. Chàng cũng là tay chuyên môn đi lùng ở mấy cái «ke» dọc theo bờ sông, chàng cũng từng cau có khi thấy một quyển sách nào mình định giở xem qua có những gì bên trong, liệu có đáng mua, thế mà gặp người chủ hàng kém tâm lý hay quá ư thương mãi đã bọc kín lại, tức không chịu được.
Nhưng rồi câu truyện chỉ quanh quẩn có thế, hình như Thiên Nga không muốn để cho ai mới quen hiểu được mình ngay. Thôi cũng đủ rồi, chừng ấy cũng đã đủ làm yên lòng thằng người nghiêm khắc. Từ độ sang đây, Georges vẫn hay tìm đọc tất cả các sách báo phân tách tâm lý của dân tộc Á đông vì chàng tha thiết muốn hiểu. Điều chàng tìm hiểu nhất là vì sao những ai rời nước Việt Nam cũng nói rằng đấy là một chốn thiên đường. Có phải vì con người còn chan chứa tình cảm lãng mạn và chân thành mà ngoài nước Việt ra khó tìm thấy ở một nước nào khác, ngay cả những nước ở vùng Á châu.
Tâm hồn Georges cũng rực nắng như ánh nắng của quê hương chàng ở miền Địa trung hải. Câu truyện ngả về những niềm tin và những thứ tình cảm ở đời.Một câu nói của Thiên Nga làm Georges giật mình.
- Ai còn đặt tin tưởng vào một thứ tình gì khác ngoài tình mẹ con thì tôi xin phục, văn minh đã giết hết...
- Cô làm như người cha không biết thương con, ngày nào tôi lập gia đình rồi cô xem.
Maurice trả lời Thiên Nga.
- Tôi ngờ vực tất cả.
Giọng người con gái cố giữ vẻ tự nhiên nhưng vẫn có gì ngao ngán mà chỉ một mình Georges để ý thấy. Chàng nghĩ thầm: thì ra đời, rồi chẳng có ai sung sướng, đâu phải riêng mình mới có những ý nghĩ bi quan, Georges bỗng cảm thấy tội nghiệp Thiên Nga.
- Giới thiệu với cô Nga ông bạn quý của tôi cũng học Nga ngữ đấy.
- Thế ạ, ông học ở trường nào?
- Trường đĩa hát Assimil, mỗi sáng nửa giờ lúc chưa ra khỏi giường, còn cô?
- Sorbonne.
Bây giờ hai con hến mới chịu mở miệng, Maurice tinh nghịch cười với ý nghĩ nếu không có câu truyện học tiếng Nga chắc hai người nầy sẽ «hến» như thế đến lúc ra về. Sợ câu truyện sắp tàn Maurice vội mồi thêm, chàng vốn ghét sự im lặng.
- Các người thật khôn ngoan, tôi đánh cuộc thế nào cô Thiên Nga cũng biết nói tiếng Anh, đúng hay không ?
- Biết chút ít thôi, vì ở Pháp ít có hoàn cảnh dùng đến, nhưng tại sao ông lại đánh cuộc. Ông đoán rằng vì chính trị hai khối mà tôi phòng xa phải không, bên nào thắng thì mình cũng sống được chứ gì. Ông lầm, tôi học ngoại ngữ chỉ để đọc tiểu thuyết vì không muốn bị dịch giả điều khiển mình, có thế thôi. Học Anh ngữ để mê Milton, mê Byron, học Nga ngữ để mê Pouchkine, Dostoevsky.
- Đàn bà mà cũng mê Dostoevsky sao? Tôi tưởng đàn bà thì chỉ dám mê Tolstoi thôi.
Cả ba cùng cười vì câu nói của Maurice.
- Tại sao đàn bà lại chỉ dám mê Tolstoi, xin ông giảng hộ.
Thiên Nga tinh quái hỏi vặn lại.
- Vì Tolstoi viết nghe sang trọng, dễ dàng, truyện nào cũng tả nhiều cảnh yến tiệc lộng lẫy với các bậc vương hầu bá tước làm cho con người dễ thèm.
Thiên Nga lắc đầu nhìn Georges để tìm đồng chí.
- Ông Maurice nói thế chẳng trách mà Sagan được thành công vì truyện của cô ta bao giờ cũng đặt trong những khung cảnh Saint Trop, với Megèvc toàn những cuộc sống ăn chơi phù phiếm làm cho mọi người đều mơ ước, đúng chăng?
Maurice không chịu thua, chàng vẫn cố cãi.
- Mấy người lôi thôi lắm, đọc văn dịch không được sao mà phải đi tìm cho ra nguyên văn, mất bao nhiêu là thì giờ để học một thứ tiếng, số các người thật là vất vả.
- Giá xưa kia Noé đừng có điên đừng xây cái Tour de Babel thì trời đâu có giận, trời đâu có phạt và hai chúng ta đâu có mất thì giờ cô Thiên Nga nhỉ ?
Chữ hai chúng ta Georges nói xong chàng bỗng cảm thấy một cảm giác là lạ. Hình như trong bốn bức tường nầy chỉ có hai người, Maurice không thích học ngoại ngữ, ghét đọc tiểu thuyết tức là Maurice chỉ đứng ở bên ngoài. Không biết Thiên Nga có để ý thấy không.
- Bây giờ mà còn nghe mấy người nói đến những nhân vật trong thánh kinh như nói đến ông láng giềng của mấy người. Mà tại sao lại không chịu đọc sách dịch cơ chứ ? Đã có đứa bóp đầu bứt tai để tìm chữ tìm ý hộ mình, việc gì mình không đọc cho nó khỏe, quả là số vất vả hay là hơi... – Maurice phát cái cử chỉ ngoáy ngón tay vào mang tai.
- Có lẽ thế, nhưng tại tôi ghét bị dịch giả chi phối, nhất định thế nào cũng có những đoạn, những lúc mà dịch giả không hiểu nổi tác giả.
- Hay chính tác giả cũng không hiểu nổi tác giả.
- Victor Hugo.
Thiên Nga hét lên sau câu nói của Georges.
- Đúng.
Thiên Nga và Georges nhìn nhau, cả hai đều rạng rỡ như vừa bắt được của quí gì. Ngạc nhiên Maurice phải hét lên theo.
- Mấy người làm như từ thuở bé cùng theo học một trường không bằng. Tại sao lại bỗng nhiên nhắc đến Victor Hugo. Ông ấy có dính gì vào đây đâu ?
Thấy bạn nhăn nhó, Georges nháy mắt trêu thêm. Lần đầu tiên chàng vui hồn nhiên như thế, nhưng rồi tội nghiệp bạn không theo được câu truyện, Georges phải kể : « Một hôm Victor Hugo làm bài thơ đọc trong buổi họp đông người. Đọc xong có người thính giả ngưỡng mộ chạy lên vái chào và gãi tai xin thầy giảng nghĩa cho vì không hiểu đoạn ấy thầy muốn nói gì. Nhà văn hào nghe hỏi xong cũng gãi tai trả lời rằng : - Lúc viết ra thì chỉ có mình trời và tôi hiểu, bây giờ thì hình như chỉ còn có trời hiểu nổi mà thôi »
Maurice đập bàn nhảy lên, vừa nhảy vừa cười vang cho là rất thú vị, nhưng rồi chàng buột miệng nói ngay:
- Tôi không ngờ hôm nay, hai người sinh ra để gặp nhau, hai người có biết không.
Câu nói của Maurice bắt Thiên Nga phải cúi đầu xuống, nàng hơi ngượng. Maurice im lặng nhận thấy mình lỡ lời cũng không biết phải nói gì, dầu sao, ý nghĩ của Thiên Nga : « biết đâu dịch giả không hiểu nổi tác giả » làm cho Georges vui thích. Đã nhiều lần chàng đang đọc một quyển sách dịch mà phải đặt xuống gập sách lại suy nghĩ, chàng tin rằng tác giả đang bị hiểu lầm. Nếu có bản nguyên văn để so sánh thì nhất định là chàng sẽ được cuộc.
Trời bên ngoài mát mẻ như một người vừa được gội xong. Saigon dễ thương ở điểm ấy, ban ngày nóng bức đến mấy mà đêm về cũng mát không hừng hực như nằm trong lò bánh mì chưa nguội.
Hôm nay Georges thấy tất cả mọi vật, mọi người đều dễ thương. Suốt bữa ăn, chàng không bỏ sót một cử chỉ một câu nói nào của Thiên Nga.
Nếu ai quen với Georges từ trước mà gặp chàng tối hôm nay, chắc người ấy sẽ ngạc nhiên lắm, chắc họ sẽ tới nhìn kỹ lại xem có phải đấy chính là anh chàng thiếu tá nghiêm nghị, kỷ luật ít ai theo kịp đó không ?
Cả phòng tham mưu không một người nào không biết đến cái tính trọng kỷ luật gần như gàn dở của Georges. Các bạn hay đưa thí dụ gàn của chàng ra kể cho nhau nghe trong lúc họp mặt. Chẳng hạn có bận mới đổi đến nhận việc ở một vùng nào, chàng đã cho lệnh đào hầm trú ẩn ngay sau buổi lễ chào cờ giới thiệu. Đào xong hầm chàng lại cho lệnh lấp đi. Không phải vì muốn ra oai, nhưng Georges muốn cho tất cả mọi người phải nhận thức rằng mệnh lệnh gì của thượng cấp đưa ra đều phải tuyệt đối tuân theo, dầu mệnh lệnh ấy có gàn dở vô lý đến thế nào. Kinh nghiệm cho biết rằng ban đầu ai cũng khó chịu, nhưng sau đó thì công việc tiến hành đều và kết quả bao giờ cũng mỹ mãn. Đến ngày Georges lìa bỏ nơi ấy thì mọi người cũng thành thật mến tiếc, kể cả những quân nhân bị chàng phạt rất gay gắt. Một sáng chủ nhật chàng đã phạt người hạ sĩ quan bướng bỉnh bằng cách bắt người ấy đến phòng làm việc với thường phục, vừa đến nơi chàng bảo về thay quân phục rồi lại trở về thay lại thường phục như cũ.
Cố nhiên chàng cũng bỏ cả buổi sáng để đến phòng làm việc với anh chàng bị phạt ấy. Lại một bận khác có cô thư ký rất xinh vừa mới tuyển. Gặp chàng cô thư ký bắt tay chào. Sau cái bắt tay ấy cô nàng bị cự ngay vào mặt :
- Cảm ơn cô đã đưa tay cho tôi bắt nhưng trong quân đội không cần phải bắt tay như thế xin cô để cho vào dịp khác.
Nói xong chàng quay lưng đi làm cô bé tức tím ruột nhưng từ đấy hết dám bắt tay. Mặc những sự chế giễu, phê bình, con người ấy không hề thay đổi.
Nhìn bạn ăn uống rất ngon lành sành sỏi, từ cách cầm đũa cho đến cách chọn món ăn. Maurice đã dạy cho bạn.
- Chúng mình đừng ngốc như những người Pháp chưa bao giờ ra khỏi nhà, các ông ấy tưởng ăn như ăn lối Pháp món gì cũng mỗi đứa một đĩa giống nhau. Mang ra đầy bàn ăn không hết mà đến lúc trả tiền thì phải ngạt thở.
- Mày còn thạo hơn cô Thiên Nga trong việc nầy ; tao cam đoan như thế, có đúng không ?
- Chưa biết, nhưng tao đến nước nào là phải sống hệt như người dân xứ ấy, sang Nhật tao mặc kimono ăn cá sống; sang Ả rập tao trùm cachabia bốc couscous; sang Phi luật tân tao cũng mang cà vạt và áo sơ-mi bỏ ra ngoài quần chẳng khác ai.
Georges vui thích như chưa bao giờ được vui thích, nhất là mỗi khi nghe Thiên Nga kể những mẩu truyện về cuộc sống trong xứ, giọng nàng có gì đặc biệt không giống như những người phụ nữ mà chàng đã được gặp ở đây, lần nào Georges cũng muốn bắt chước theo. Chỉ nội một chữ «Vâng» được nàng kéo dài ra khi đồng ý một truyện gì cũng đủ làm cho Georges để ý, không lần nào khác lần nào, giá chàng được gặp lâu hơn để tìm thêm những chữ khác chắc là thích lắm.
Ăn xong Thiên Nga đòi về, mặc dầu mới có 10 giờ, trong khi cả chàng và Maurice đề nghị muốn mời Thiên Nga đi uống cà phê ở một hiệu khác. Mục đích của Georges không ngoài sự muốn được nhìn Thiên Nga và được nghe cô gái nói truyện.
Nài nỉ cũng vô ích, hai người bạn đành phải đưa Thiên Nga về nhà.
Trên con đường dịu mát sương đêm, dưới những cành tre lăn tăn giao nhau âm u chỗ tối chỗ sáng vì ánh đèn đêm thưa thớt, Maurice và Georges đi bộ chầm chậm trở về. Maurice hỉ hả vì được một bữa vui và ăn ngon trong khi Georges thắc mắc với muôn nghìn câu hỏi đang đặt ra trong đầu óc. Chàng muốn kéo dài những giây phút hiếm có ấy ra hơn chút nữa, vì biết có về sớm cũng không thể nào ngủ được. Tính chàng lại rất kỵ những phút nằm thao thức trên giường, đây là lúc mà những kẻ lương thiện hay cảm thấy mình có nhiều tội lỗi...
Georges cố gợi bắt bạn kể hết cho mình nghe những gì thuộc về kẻ mới quen, nhưng Maurice cũng chỉ mới biết nàng mà thôi. Hình như chàng đoán đúng Thiên Nga là một cô gái miền thượng du lạc loài về, được nuôi dưỡng trong một gia đình khá sung túc, nàng sang Pháp học và bây giờ về không chịu khí hậu nên ốm, sắp phải lên Đà-lạt dưỡng bệnh.
Một cảm giác buồn mênh mang xâm chiếm khi Georges nghe bảo Thiên Nga lại sắp đi Đà-lạt, mà chàng cũng không muốn tìm hiểu vì sao.
Tiễn bạn về đến tận nhà rồi, chỉ còn một mình Georges đang âm thầm bước trên con đường vắng vẻ. Những vì sao trên trời đêm nay hình như sáng hơn mọi đêm hay vì trời đêm nay tối hơn mọi đêm. Hơi sương lành lạnh thấm nhẹ qua lần áo vải trắng. Georges bật diêm hút thuốc, ánh sáng lửa lòe ra trong màu đêm đen, tâm hồn người đàn ông đêm nay cảm thấy có gì lạc lõng. Chàng nghĩ đến vợ, người vợ rất đẹp mà chàng đã đặt vào tất cả tình yêu, tất cả tin tưởng, nhưng chưa hề cho lại chàng một lần nào hạnh phúc, hay chỉ dành cho chàng toàn những đau xót thất vọng... Tại sao thế.. Ý nghĩ quay lại với gia đình với cha mẹ, với các anh em. Cả nhà mỗi ngày đến nhà thờ hai lần để cầu nguyện cho đứa con trai ở phương xa khỏi gặp những gì bất trắc.
Ý nghĩ trở lại với hình ảnh cô gái Việt, có đôi mắt xếch của người dân Mông Cổ, với giọng nói là lạ. Georges tự hỏi sao hôm nay mình lại dễ dãi quá thế, đàn bà chàng đã gặp rất nhiều ở trên đời, cô gái nầy có gì khác mà dám chiếm lấy tâm trí chàng từ nãy đến giờ.
------------------------------------
THƠ THẨN QUANH ÔNG TÁO
Trăm bài thơ nấu ăn
VT Mỹ Ngọc
2004
LỜI MỞ ÐẦU
Xưa nay Linh Bảo vẫn biết là Mỹ Ngọc làm việc rất chu đáo, nhưng không ngờ chu đáo dến mức độ gửi cho LB cuốn Thơ Gia Chánh Thơ đến cả 2 địa chỉ “i Meo” .
My Ngọc sợ một bị lạc thì có “Meo” thứ hai nhận được phải không ?
Ðọc xong LB choáng cả người . Thôi rồi ! Than ôi ! Củi ôi ! Thế là từ nay LB mất ngôi “Chỉ biết ăn, không biết nấu “ rồi . LB thích đeo cái nhãn hiệu này để …trốn làm bếp vì . . . . .tự nhận không biết nấu ăn .
Ðọc xong, không những thấy toàn món ngon, đúng khẩu vị, đúng văn hóa nên gợi hứng, muốn nấu thử nữa!
Gia chánh bằng thơ, chỉ liếc qua là thuộc. Khỏi mở sách kiểm lại từng giòng, từng món . . . . dễ quá . Dễ như ăn ớt!
Nhưng khổ nỗi nếu LB biết nấu cả trăm món ngon lành trong Gia Chánh Thơ này rồi biết mời ai đây!!!
Linh Bảo
06/2004
MỞ QUÁN
Mở quán mà không coi ngày
Coi chừng nồi cháy chảo bay tiêu tùng
Coi chừng khai trương tưng bừng
Âm thầm đóng cửa thẹn thùng lắm thay
Khai trương mở tiệm đến ngay
Tại đây coi bói chỉ tay bấm giờ
Táo tàu đoán trúng hổng ngờ
Mau mau đặt quẻ chần chờ chi đây
mại dô :)
LẠI MỞ QUÁN
Mở quán ăn không lò
Ở cạnh ngay bờ biển
Tưởng đâu là hổng lo
Khách vào hầu mệt nghỉ
Ai ngờ đâu ế rề
Bao nhiêu người lảng vảng
Với dáng điệu rụt rè
Ngó vào rồi đi thẳng
Nàng mặc Bi ki ni
Chàng bận quần xà lỏn
Không có giầy mang đi
Tắm biển lên đói cuống
Nhìn tấm bảng đi luôn
Tiệm người ta nhộn nhịp
Ngó tiệm mình thấy buồn
Thôi chắc tui xin " quít" (quit)
Lột " bảng" xuống mau mau ***
Kẻo không ai thèm tới
Nếu muốn cho chóng giàu
Quán cần phải thay đổi
Tại vì bảng ghi :***" No Shoes, No shirt, No service "
CƠM TAY CẦM
Bánh mì thịt nguội ba tê
Mì gà, xá xíu ăn mê tuyệt vời
Ăn rồi uống nước no hơi
Chân đi hổng nổi phải ngồi xuống đây
:)))
CƠM CHỈ
Ngó hàng cơm chỉ hết hồn
Vài ba chục món thiệt ngon vô cùng
Món chiên, xào, nấu thơm lừng
Thịt kho, măng trộn một rừng chọn chi
Nhiều quá chẳng biết món gì
Nhắm mắt chỉ đại thôi thì cũng xong
Về nhà khỏi rửa nồi son
Ăn no bể bụng hết còn mần thơ
CƠM HẾN
Cơm nguội mình còn dư
Ðể lâu e bị hư
Thôi dùng làm cơm hến
Ăn rồi mê bỏ xừ
Nhớ là phải có rau
Xắt sợi sợi rối nhàu
Có bắp chuối càng tốt
Coi chừng rau có sâu
Cơm, rau sắp vào tô
Hến và tỏi xào sơ
Múc vào để bên cạnh
Chưa gì nghe thơm tho
Ớt, ruốc nhớ đừng quên
Ai có " hẹn" không nên
Ăn món này là chết
Hôn người ta chạy liền
Nếu không có đúng rau
Dùng bắp cải cho mau
Cần rau thơm, rau húng
Không có thiệt là rầu
Hôm nào nhà hết cơm
Mình chế món lạ hơn
Hến đem xúc bánh tráng
Ðổi món ăn cũng ngon
CƠM VẮT
Hôm nay tui lỡ nấu cơm nhão nên ế hông ai ăn hết thôi thì :
Cơm nhão hông ai ăn
Thôi tui đổ ra khăn
Nhớ là khăn phải ướt
Nhào tới lui nhiều lần
Thịt heo xay để riêng
Tép xã bầm liền liền
Nêm nếm cho vừa miệng
Bỏ vào chảo xàọ... chiên
Nhớ để lửa riu riu
Rắc thêm vào chút tiêu
Xào qua rồi xào lại
Ăn ngon biết bao nhiêu
Cơm vắt chấm ruốc kho
Ăn vài lát đã no
Vẫn còn thèm ăn nữa
Ai muốn hông tui cho
NƯỚC MẮM KHO QUẸT
Nhớ là lửa nhỏ riu riu
Nhớ là tay phải khuấy đều nghe chưa
Nước mắm trộn đường vừa vừa
Quậy hoài từ sáng đến trưa được liền
Mặn mặn, ngọt ngọt, mềm mềm
Sền sệt như kẹo ăn thêm cơm nhiều
ăn món này ít tốn tiền bà con ơi :))
GỎI CUỐN
Tôm mang luộc, lột vỏ
Rau rửa sạch bày ra
Thịt chín cắt lát mỏng
Tương chấm pha mặn mà
Bánh tráng thấm ươn ướt
Sắp bún, thịt, tôm, rau
Chỉ trong vòng vài phút
Ðĩa gỏi cuốn thiệt ngầu
Có đuôi xanh lá he.
Nhìn trông mà phát thèm
Ăn một còn tiếc rẻ
Phải nhất định ăn thêm
BÒ BÍA
Miếng bánh tráng nằm chờ
Sắp vài con tôm khô
Thêm ít lát lạp xưởng
Trứng chiên nhớ bỏ vô
Chút xíu củ đậu xào
Cuốn cho thật chặt vào
Tương nhớ rắc đậu phộng
Ăn nghe vị ngọt ngào
MÍT TRỘN
Mít luộc vắt thiệt khô
Xé ra từng lát nhỏ
Tôm thịt luộc phải có
Trộn cho thiệt đều tay
Mè rang chớ quên này
Thêm rau thơm xắt sợi
Nghe mùi đã thấy đói
Mau mau hãy dọn ra
Ấy còn đĩa bánh đa
Không thể nào quên được
Bẻ ra dùng để xúc
Mít trộn ngon làm sao
Tiêu muối nêm nếm vào
Ăn phải thật chậm rãi
Một lần là nhớ mãi
Bánh tráng xúc mít đâỵ..
BÁNH XÈO/ BÁNH KHOÁI
Cần rau thơm với cải xanh
Bánh xèo thêm giá, thêm hành nhiều nghe
Tôm thịt tui hổng có mê
Cho thêm nhiều nấm ô kê lắm rồi
Ba cái là no thấu trời
Lấy rau cuốn bánh tuyệt vời người ơi
Mấy người ăn chay dễ thôi
Tàu hủ thế thịt và rồi cũng xong
Bánh chiên phải thật cho dòn
Trong Nam ngoài Huế bánh tròn như nhau
Cũng là màu nghệ vàng thau
Bánh xèo, bánh khoái y nhau chứ gì
Nươ’c chấm chỉ khác tí ti
Bên pha nước mắm, bên thì chấm tương
BÁNH LÁ (BÁNH NẬM)
Tôm luộc rồi đem xay
Bột gạo dáo liền tay
Lửa riu riu kẻo khét
Ðược rồi nhắc xuống ngay
Tôm xào với dầu hành
Lá chuối chọn non xanh
Nồi nước sôi bỏ trụng
Vớt ra cho thật nhanh
Lá chuối lau thật khô
Múc muổng bột bỏ vô
Rắc thêm muổng tôm chấy
Chưa gì đã thơm tho
Xếp bánh lại làm tư
Vuốt bánh ngó nhuyển nhừ
Bỏ vào cái xửng hấp
Chín rồi chẳng ngần ngừ
....
Ăn một lèo chục cái
BÁNH BÈO
Bột gạo đổ ra thau
Lường nước trộn lẫn nhau
Quậy đều cho tan nhuyễn
Rắc chút muối nêm vào
Lấy thịt nạc xắt, bầm
Tôm luộc đem lột trần
Ðể ráo nước giả nhuyễn
Nêm, xào vơ’i dầu, hành
Bắt xửng nấu thật sôi
Sắp chén đầy mặt nồi
Ðổ bột vào chén hấp
Bánh chín, trong, được rồi
Chờ bánh nguội trét nhân
Rắc lên mặt mỡ hành
Ăn phải có nước mắm
Pha tỏi ớt với chanh
BÁNH CHƯNG
Bánh tét hay bánh chưng
Chắc là ai cũng biết
Ai ai cũng phải cần
Biếu nhau trong dịp Tết
Dùng khuôn là chắc tay
Nếp vo để ráo nước
Cần mỡ, thịt nạc vai
Ðậu xanh ngâm tán nhuyển
Lá dứa giả, lọc màu
Trộn chung vào với nếp
Thịt, mỡ cho tỏi vào
Ðem xào cho chín hết
Xếp lá vào trong khuôn
Kế đến là bỏ nếp
Từng lát thịt vuông vuông
Nhân, mỡ gì bỏ hết
Gói bánh rồi buộc dây
Nấu lửa sôi sùng sục
Cũng mất hết nưả ngày
Nhớ canh nuớc chừng mực
Bánh chín rồi vớt ra
Nhớ để cho ráo nuớc
Biếu bà con làm quà
Ba ngày tết đẹp ước
BÁNH BỘT LỌC TRẦN
Bột năng chế nước sôi
Hai tay ta cứ nhồi
Nhớ làm mau làm kỷ
Không dính tay mới thôi
Hành phi mỡ cho thơm
Cắt thịt và lột tôm
Bỏ vào xào cho chín
Nêm vừa miệng là ngon
Cắt bột để ra bàn
Tôm thịt bỏ giữa tâm
Gấp hai mí bột lại
Nhơ’ bóp chặt chắc ăn
Thả bánh vào nước sôi
Bánh chín sẽ trong, trồi
Nổi lều bều lên mặt
Vớt ra liền dễ thôi
Nước mă‘m ớt xắt khoanh
Bánh được trét mỡ hành
Ðố ai chỉ ăn một
Chậm chân là hết nhanh
Nếu không muốn bánh trần
Thì ta mặc áo quần
Lấy lá chuối gói lại
Nhồi nước sôi không cần
Bột pha nước dáo đều
Lưả để nhỏ riu riu
Muốn kiểu nào cũng được
Ăn ngon biết bao nhiêu
BÁNH GIÒ
Bằm nhỏ miếng thịt heo
Ướp với mắm, muối, tiêu
Ðổ dầu, hành vào chảo
Xào chung với nấm mèo
Bột trộn nước cho tan
Liền tay khuyấy nhiều lần
Nhớ giảm lưả nhỏ xuống
Bột đặc để ra bàn
Lá chuối rửa lau khô
Múc muổng bột bỏ vô
Cho nhân vào chính giữa
Gói chặt lại khỏi lo
Xửng nước cũng đã sôi
Sắp bánh vào đi thôi
Hấp đến khi bánh chín
Mở ra ăn ngon ơi
CANH CHUA CÁ BÔNG LAU
Soong đổ nước vừa vừa
Nêm nước mắm, me,ớt
Thêm củ hành đâm nhỏ
Bỏ vào nấu cho sôi
Vớt ra lọc ngay thôi
Lấy một cái soong khác
Nấu sôi mấy khứa cá
Nhớ vớt bọt bỏ ra
Ðừng quên giá, bạc hà
Cà chua thêm sau đó
Xắt vài khoanh ớt nhỏ
Mắm muối nêm vừa ăn
Nhớ trộn nước me dầm
Rau thơm không thiếu được
Nồi canh nóng mời mọc
Ai nhìn cũng phát thèm
CÁ RÚT XƯƠNG
Một con cá thu to
Hai trăm gam thịt nạc
Tiêu, muối đường, mỡ, bơ
Nấm mèo, hành bầm nát
Lấy dao xẻ đường dài
Luồn dưới bụng con cá
Rút ruột lóc xương ra
Dồn nhân vào rồi vá (dùng kim may lại)
Cá đặt trong khay nhôm
Bỏ vào lò lửa nướng
Rưới bơ lên cho thơm
Thấy vàng đều là chín
Lấy cá đem sắp ra
Chung quanh chanh thái mỏng
Thêm hành lá tỉa hoa
Cá tiêu diêu bất động
ÐỒ BIỂN CHIÊN DÒN
Mực rửa sạch lấy râu
Tôm lột vỏ bỏ đầu
Hoặc muốn ăn đồ biển
Món nào cũng giống nhau
Ướp tỏi hành muối tiêu
Rắc bột trộn cho đều
Nhúng vào chảo dầu sôi
Ðừng để lửa riu riu
Chiên vàng rồi lấy ra
Chấm tương ớt xuýt xoa
Ui da cay quá xá
Ðừng quên bia “ băm ba “
RAGU LƯỠI BÒ
Một cái lưỡi con bò
Khoai tây lựa tròn vo
Vài ba củ cà rốt
Sốt cà hộp bỏ vô
Lấy hành tỏi ra băm
Bỏ vào xào một phần
Chung với khoai, cà rốt
Gần chín vớt ra nhanh
Lưỡi rửa sạch cạo da
Ướp gia vị đậm đà
Bát một chảo dầu nóng
Hành còn lại xào qua
Thịt săn nêm muối tiêu
Vặn lửa lại riu riu
Ðổ nước sôi ngập thịt
Nấu tiếp cho chín đều
Cà rốt khoai tiếp theo
Nước cạn thịt cũng teo (săn)
Thêm bột mì hòa nước
Sốt sền sệt trong veo
Bánh mình bỏ nướng lò
Thịt sắp vài cọng ngò
Ðể trên mặt cho đẹp
Ăn ngon muì thơm tho
BÒ TÁI CHANH
Nửa ký lô thịt bò
Rau răm, ớt, toỉ ngò
Củ kiệu chua xé sợi
Hành phi vàng thơm tho
Giã nhỏ đậu phộng rang
Sau khi rang thiệt vàng
Chanh thì vắt lấy nuớc
Mắm, muối, đuờng rất cần
Thịt xắt ướp tỏi tiêu
Ướp lâu thịt thấm nhiều
Hành tây bào ngâm dấm
Tất cả trộn cho đều
Thịt chin là nhờ chanh
Rắc đậu phọng, rau răm
Nhớ bằm thêm tí ớt
Quậy nuớc mắm vừa ăn
Ðừng quên bánh phồng tôm
Chiên lên cho thật dòn
Xúc ăn cùng với gỏi
Có còn gì ngon hơn
GỎI BƯỞI
Bưởi bẻ múi vừa ăn
Tôm rang muối bóc vỏ
Thịt luộc chin xắt nhỏ
Cắt từng khúc cần tàu
Ớt thái sợi, tỉa hoa
Gà ướp hấp xé sơị
Cà rốt xắt vắt tơí
Ðến khi ráo mới thôi
Dưa leo xắt rối bời
Nhớ bỏ vỏ và ruột
Ướp đường vắt ráo tuốt
Xong đến xắt hành tây
Cũng làm giống trên đây
Cho tất cả vào trộn
Nêm gia vị vừa miệng
Mắm, đưòng chanh vừa ăn
Rải lên đậu phộng rang
Món chính luôn phải nhớ
Bánh phồng tôm là nó
Hông có làm sao ngon
GỎI ÐU ÐỦ
Một trái đu đủ hườm
Rau răm hay rau thơm
Chanh ớt và nước mắm
Tai heo hoặc thịt, tôm
Giã nhỏ đậu phọng rang
Hành nhớ phi cho vàng
Ðường giấm và gia vị
Nhớ đừng quên ớt bầm
Ðu đủ bào đem ngâm
Hấp chin lột vỏ tôm
Thịt luộc chín xắt mỏng
Chanh bỏ đường quay tan
Nước mắm hòa trộn chung
Cho tỏi phi vào cùng
Trộn đều hết tất cả
Rưới nước mắm khi dùng
Xếp ra đĩa thịt tôm
Trên mặt rắc rau thơm
Rồi hành phi đậu phọng
Ðẹp thơm ngon mặn nồng
Nếu muốn làm gỏi chay
Thịt và tôm phải thay
Cũng không dùng nước mắm
Là ăn chay được ngay
Thay vào bằng mì căn
Thêm một ít nấm rơm
Muốn dùng củ cải trắng
Nước tương rồi cũng xong
GỎI MĂNG
Một nửa con gà mềm
Một chút nước mắm nêm
Hành lá, đường và muôí
Hành tím, hành tây, thêm
Ðừng quên rau, ớt, chanh
Chính là phải có măng
Gia vị và đậu phọng
Giã sau khi rang vàng
Mở lửa bắt nước sôi
Gà sạch bỏ vào nồi
Nhớ cho thêm chút muối
Gà chín vớt ra thôi
Xé miếng vừa vừa ăn
Hành lột vỏ phi vàng
Rau, ớt, rửa xắt nhỏ
Luộc, rửa sạch củ măng
Măng ráo cho vào thau
Trộn cả vào với nhau
Hành tây, chanh, đường muối
Trên mặt xắp ngò, rau
GỎI MIẾN GÀ
Hai trăm gam miến tàu
Cần tây và củ tỏi
Kiệu chua phải xé sợi
Cần cà rốt và gà
Miến trụng nở lấy ra
Xổ nước lạnh để ráo
Trộn dầu mỡ, cắt khúc
Gà ướp với muối tiêu
Xé miếng vừa đều đều
Chanh bỏ hột xong vắt
Cà rốt đem ra thái
Cho muối trộn đều, mềm
Rửa sạch, để một bên
Rau răm xắt cho nhuyễn
Trộn tất cả với miến
Ăn thua nước mắm pha
Nêm sao cho mặn mà
Chút chua chua ngọt ngọt
Nhớ đừng quên bỏ ớt
Rắc đậu phọng, rau răm
GỎI BAO TỬ (1)
Tôm hấp, lột chẻ đôi
Thịt luộc chín xắt mỏng
Bao tử rửa đừng hôi
Luộc kỷ đừng để sống
Củ cải trắùng đem bào
Cả dưa leo cà rốt
Xắt ớt đỏ, cần tàu
Vắt càng khô càng tốt
Chớ quên bánh phồng tôm
Ðường dấm pha nước mắm
Ðậu phộng rang thiệt thơm
Nhớ trộn đều cho thắm
Ðĩa gỏi sắp ra bàn
Rắc đậu phọng lên mặt
Thêm chút xíu ngò, cần
Vừa ngon vừa đẹp mắt
GỎI NGÓ SEN
Cũng giống gỏi bao tử
Nhưng không cần dưa leo
Không cần củ cải trắng
Chỉ thế vào ngó sen
Phải thay thế bao tử
Bằng bạc thẻ, tôm càng
Tôm càng thì nướng lửa
Bạc thẻ hấp đàng hoàng
Cách làm thì cũng giống
Aên phải có phồng tôm
Mỗi người tùy sở thích
Xem món nào ngon hơn
GỎI MÍT NON
Ba trăm gam mít non
Một trăm gam đậu phộng
Cộng thêm thịt ba rọi
Và một ít tôm tươi
Mít bỏ hột, bỏ cùi
Rồi đem ra xắt rối
Luộc chín xong vắt ráo
Ðể riêng qua một bên
Tôm lột bỏ chỉ đen
Ướp tiêu và gia vị
Thịt thái mỏng sợi chỉ
Cho vào chảo dầu xào
Ðổ tôm thịt trộn đều
Khi chín bắc ngay xuống
Tỏi ớt đem băm nhỏ
Chanh đường quậy cho đều
Muốn thơm bỏ tỏi nhiều
Trộn chung với nước mắm
Cùng tôm thịt và mít
Rửa sạch, xắt rau răm
Giả nhỏ đậu phộng rang
Sắp gỏi dọn ra đĩa
Rắc rau răm lên mặt
Ðậu phộng bỏ trên cùng
….
sơi
GỎI BAO TỬ (2)
Một cái bao tử heo
Ba trăm gam ngó sen
Ba trăm gam giò lụa
Chừng hai củ hành tây
Một ít nước mắm ngon
Nhớ đừng quên rau răm
Giấm, muối, đường, gia vị
Ớt chín và tỏi băm
Bao tử mua về rồi
Rửa sạch với nước sôi
Lúc nấu bỏ chút muối
Cạo sạch nhớt trong ngoài
Xong bắt một chảo lên
Ðổ chén giấm đun sôi
Nấu độ chừng năm phút
Bao tử nhớ trở đều
Sau đó cho vào xoong
Lại lấy nước đem đun
Luộc bao tử vừa chín
Ðể nguội cắt vừa ăn
Giò lụa thái để riêng
Hành chẻ ngâm giấm đường
Rau răm nhặt rửa sạch
Thái nhỏ cũng để riêng
Ngó sen tướt sợi ngoài
Nước lạnh pha muối ngâm
Rửa sạch ngâm lại giấm
Vớt ra lúc gần ăn
Hành tây và ớt băm
Ðựng trong tô giấm ngăm
Quậy với đường, nước mắm
Chua ngọt vừa miệng nêm
Ðáy dĩa trải ngó sen
Rồi đến bao tử heo
Ngó sen sắp kế tiếp
Giò lụa sắp lên trên
Rồi những khoanh hành tây
Rau răm, ớt đỏ cay
Rưới nước mắm chua ngọt
Aên nhẹ bụng, ngon thay
BA TÊ GAN
Bò heo chỉ lấy gan
Thêm mỡ chài, thịt nạc
Muối tiêu tỏi bột năng
Hành, gan thịt xay, cắt
Cho tất cả vào nhồi
Khi đã được xay nhuyển
Nêm vừa miệng ngon ơi
Có thể đem nướng thử
Trải mỡ chài vào khuôn
Kế đến gan, nhân thịt
Xếp lên vài lá thơm
Bỏ đút lò cho chín
Ðể nguội ăn mới ngon
Phải ém cho thiệt chặt
Quẹt vào bánh mì dòn
Ăn lai rai, lắt nhắt
THỊT KHO NƯỚC DỪA
Ðùi heo một ký lô
Nước mắm và chút muối
Một trái dừa thiệt to
Ðường thẻ và tép tỏi
Thịt rửa sạch cạo lông
Xong ướp tỏi giả nhuyển
Chưa gì đã thơm nồng
Ðể cho thấm gia vị
Thịt đem bỏ vào nồi
Nấu cho sắc nước lại
Thêm nước dừa, nước sôi
Vớt bọt chớ ngần ngại
Xong bớt lửa riu riu
Thỉnh thoảng nhớ vớt bọt
Ðậy nắp cho mềm đều
Thịt mặn mặn, ngọt ngọt
Nước kho phải thật trong
Thịt mềm không được nát
Cắn ớt hiểm, và cơm
Ngon cay chảy nước mắt
CÀ RI GÀ
Gà làm sạch chặt ra
Hành tỏi xắt bầm nhỏ
Khoai tây nhớ lột vỏ
Ướp gà với muối tiêu
Cà ri chà ướp đều
Bắt chảo vặn lửa lớn
Ðợi một chút cho nóng
Bỏ gà vào chiên vàng
Nhìn thấy thịt hơi săn
Ðổ nước dừa sấp sấp
Nhớ cẩn thận đóng nắp
Hầm cho thịt gần mềm
Bỏ khoai tây vào thêm
Nếu muốn ăn beo béo
Nêm cho đừng nhạt nhẽo
Thêm sửa, nước cốt dừa
Ăn tối hay ăn trưa
Ăn với cơm hay bún
Hay với bánh mì nướng
Không còn gì ngon bằng
GÀ NẤU ÐẬU
Một con gà mái tơ
Ðậu hòa lan hột, nấm
Hành lá thơm lá ngò
Muối tiêu và nước mắm
Gà rửa chặt miếng to
Ướp gia vị mắm muối
Cho vừa miệng, thơm tho
Nhớ bằm thêm hành tỏi
Bắt chảo dầu để sôi
Cho hành toỉ bầm nhỏ
Bỏ gà vào chiên sơ
Hơi vàng là được đó
Lấy một soong khác ra
Lại xào dầu với toỉI
Ðổ vào một hộp cà
Cho gà hầm chín tới
Nước sôi nhớ châm thêm
Gà mềm cho đậu hộp
Bỏ nấm rơm, nếm nêm
Trộn nước lạnh với bột
Ðổ bột này vào gà
Khi thấy đặc sền sệt
Tắt ngay lò bếp ga
Dọn ăn ngon hết biết
GÀ ẤP TRỨNG
Một con gà mái dầu
Bảy trăm gam giò sống
Năm mươi gam bún tàu
Hai mươi cái trứng cút
Một ít nấm đông cô
Hành lá, củ hành nhỏ
Trăm gam xà lách son
Gia vị, tiêu muối tỏi
Hột gà và hạt sen
Bột ngọt rồi tương ớt
Một muỗng súp bột năng
Vật liệu nhớ đầy đủ
Gà làm sạch nguyên con
Rút xương ra chừa thịt
Rửa xong lau cho khô
Sau khi đã ráo nước
Ngâm, rửa, cắt bún tàu
Trứng cút luộc lột vỏ
Hạt sen luộc chín mềm
Xong rồi mới giả nhỏ
Ngâm rửa nấm đông cô
Mang ra xắt hột lựu
Xắt, bầm nhỏ tỏi hành
Cho giò sống vào tượng
Kế đến là hạt sen
Nấm, hành tỏi bầm nhỏ
Bún tàu, gia vị nêm
Nước tương, hoặc bột ngọt
Nhớ phải trộn cho đều
Dồn vào gà khi nảy
Xong phải dùng kim may
May đường lưng gà lại
Lấy dây cột hai chân
Rồi buộc vòng qua bụng
Cho nước sôi vào nồi
Bỏ vào tép hành lá
Thả bộ đồ lòng vào
Cho thêm một chút muối
Nấu xương gà cho mềm
Nước sôi nhớ vớt bọt
Thả gà đã may vào
Luộc gà cho hơi chín
Ðộ khoảng chừng một giờ
Lấy ra để ráo nước
Xịt xì dầu lên gà
Khi chiên phi hành tỏi
Trở gà chiên cho vàng
Chưa gì nghe thơm phức
Cho bột năng vào tô
Nước dùng lấy một chén
Quậy bột tán cho đều
Thêm tỏi hành bầm nhỏ
Một muỗng súp nước tương
Nếu muốn thêm bột ngọt
Một hột gà đánh vào
Quậy đều tới khi chín
Sắp xà lách quanh tô
Ðể trứng cút vào giữa
Chế nước sốt lên trên
Ðặt gà nằm trên trứng
Trông đẹp mà lại ngon
Hệt như gà ấp trứng
Món này đem bày bàn
Khi ăn xắt lát mỏng
GÀ SIU SIU
Một con gà mái tơ
Rửa sạch để ráo nước
Gia vị đem ra ướp
Chừng nửa tiếng đồng hồ
Bỏ vào nồi nước sôi
Cho vào một chút muối
Vài củ hành xắt rối
Luộc gà và đồ lòng
Nước lèo đổ ra soong
Khi con gà chín tới
Vớt ra để cho nguội
Chặt từng miếng vừa ăn
Ðổ gạo vào nấu cơm
Khi chín múc ra đĩa
Dưa leo, cà rốt tỉa
Sắp gà bày chung quanh
Aên sạch bách tan tành
Tại là vì ngon miệng
Nói nghe chảy nuớc miếng
À,
Ðừng quên nước mắm gừng
MÌ XÀO DÒN ÐỒ BIỂN
Cần ba vắt mì tươi
Mực, tôm, thịt gà heo
Cà rốt, cần, bông cải
Ngò, hành tây, muối tiêu
Mì bỏ vào chảo chiên
Mì nổi phồng miếng nguyên
Nhớ là lửa thiệt nóng
Gắp vớt ra dĩa liền
Kế đến xào tỏi thơm
Cho đồ biển thịt tôm
Nêm gia vị mắm muối
Bột sền sệt vừa trong
Ðổ sốt xong bỏ ngò
Nhớ rắc tiêu sơ sơ
Khi dọn nhớ tương ớt
Ðể ai cần thêm hờ
TRÉ
Món này các ông ưa
Tré hay là Nem chua
Uống vào mấy xị đế
Nằm lăn quay say sưa
Một ký đầu thịt heo
Mè, tỏi, riềng, muối, tiêu
Cần lá ổi lá chuối
Thính thơm biết bao nhiêu
Tiêu xay, tỏi phải băm
Thịt xắt mỏng, mè rang
Riềng giã nhuyễn trộn thịt
Trộn đều nước mắm ngon
Thịt gói chặt buộc dây
Treo độ khoảng năm ngày
Ðể ở nơi khô ráo
Thơm, ngon, chua, tiêu cay
BÁNH TÔM CHIÊN
Hai trăm gram khoai lang
Bột gạo hay bột năng
Thêm bột mì bột nổi
Tôm là chính rất cần
Mắm, muối, chanh, ớt dầu
Phải có dưa leo, rau
Rau thơm và sà lách
Thiếu rau coi bộ rầu
Tôm rửa sạch bỏ đầu
Lặt chân và chừa đuôi
Khoai lang gọt xắt sợi
Các thứ bột trộn đều
Múc muỗng bột trộn khoai
Ðể con tôm nằm dài
Chiên vàng cả hai mặt
Chín dòn vớt ra ngay
Bánh tôm dùng với rau
Những lát ớt đỏ màu
Nằm trong chén nước mắm
Chấm ăn, ngon gì đâu
KÌNH NGƯ TẮM NẮNG
Ba trăm gam tôm thẻ
Rửa sạch ướp muối hành
Một ổ mì xăn wích
Bột mì và bột năng
Một mớ cải sà lách
Bốn lòng trắng hột gà
Gừng, bột ngọt tiêu hột
Bánh mì cắt lát ra
Ðánh lòng trắng cho nổi
Hai thứ bột trộn chung
Bỏ vào đánh cho tới
Ðể qua chút nữa dùng
Hai hột tiêu làm mắt
Tôm đặt giữa bánh mì
Trét lên chút lòng trắng
Dầu sôi chiên tức thì
Bánh chiên phải cho xốp
Muốn ngon bánh phải dòn
Không cháy và không khét
Sắp ra cái đĩa tròn
TÔM XÀ RÔNG
Vật dụng cần tôm lớn
Vài vắt mì, thế thôi
Món này ăn không ớn
Con nít thích nhất rồi
Tôm lột vỏ rửa sạch
Nhớ chừa lại cái đuôi
Mì sợi làm quần áo
Quấn chung quanh vòng ngoài
Nhớ vặn lửa cho lớn
Chảo dầu phải thật sôi
Nhớ coi chừng tay bỏng
Chiên một chút được rồi
Vớt ra ngay để ráo
Sắp trên đĩa rau xanh
Món này ăn với xốt
Hết chục con ngon lành
CHẠO TÔM
Cần một trái dừa xiêm
Hai ký lô tôm thẻ
Hai trăm gam mỡ thịt
Thêm một muỗng phèn chua
Khoảng ba cây mía lau
Ba mươi cái bánh tráng
Muối đường tiêu tỏi ớt
Hành, bột ngọt nếu cần
Tôm lột vỏ xẻ lưng
Rửa sạch đem chà muối
Cho đến khi hết nhớt
Rửa lại bằng nước phèn
Lau khô ngâm nước dừa
Vớt tôm bỏ vào cối
Ðem quết với hành lá
Tỏi cũng bỏ vào chung
Trước khi đem mỡ phơi
Mỡ thịt phải xắt chỉ
Trộn vào đó tí muối
và thêm 1 muỗng đường
Sau khi quết nhuyễn tôm
Nêm muối tiêu bột ngọt
Hàn the, đường, mỡ thịt
Nhớ trộn cho thật đều
Nướng thử xem vừa ăn
Vậy là được rồi đó
Kế đến mía đem lóc
Sau khi chẻ làm tư
Gọt lại cho mía tròn
Tay nhớ thoa chút mỡ
Bọc tôm vào chính giữa
Hai bên đầu nhớ chừa
Nướng chạo trên lửa than
Lửa vừa để tôm chín
Gần ăn nhớ nướng lại
Cùng bánh tráng và rau
Khế, chuối chát, dưa leo
Chấm tương rắc đậu phọng
Thêm đồ chua ớt tỏi
Nghỉ tới nghe đã thèm
BÚN BÒ HUẾ
Nước dùng nấu với giò, gân
Thịt đùi ướp xả, ớt, hành, muối tiêu
Bỏ lên lửa nấu riu riu
Xong rồi cắt lát sắp đều mặt tô
Rắc thêm chút xíu hành ngò
Nước sôi sùng sục thơm tho cả nhà
Ngồi ăn tô bún hít hà
Nước mắt nước mũi tùm là.... tùm lum
:)))
BÚN THANG
Ba trăm gam sườn heo
Một con gà, chả lụa
Một mớ tôm khô queo
Ba hột vịt, bún luộc
Cà cuống và mắm tôm
Gia vị như mắm muối
Củ hành ngò rau răm
Nhớ là không được thiếu
Ðổ nước lạnh vào nồi
Ðun lên cho hơi nóng
Muối và gà thả vào
Vớt ra khi gà chín
Lúc luộc nhớ cho hành
Xắt từng lát mỏng mỏng
Gà nguội xé tanh bành
Ðể riêng vào một đĩa
Cho sườn vào nước gà
Khi nấu nhớ vớt bọt
Ðến khi sườn thật mềm
Mới lấy nước dùng được
Cho tôm khô vào nồi
Khi nước dùng đã được
Lấy ra lọc hoặc rây
nêm mắm muối bột ngọt
Còn một ít tôm khô
Ðem ngâm nước rửa sạch
Giả nát chà như tơ
Chả lụa, trứng xắt sợi
Xắt nhỏ rau, hành ngò
Lót rau răm xuống dưới
Bỏ bún tươi vào tô
Sắp thịt, tôm, chả, trứng
Giữa tô để hành ngò
Món này phải ăn nóng
Mở lửa lên cho to
Nếu muốn thêm cà cuống
BÚN ỐC
Hôm qua mưa đổ sụt sùi
Tui mang đèn ống *, dùi cui xuống đường (*đèn pin)
Cứ nhắm ngay mấy đường mương
Dễ thôi Rắn rít, Oác, Lươn, có liền
Muốn cho ngọt nước dùng
Hầm nhiều nhiều xương sườn
Nêm mắm muối gia vị
Bắt nồi nước lên đun
Nước sôi bỏ cà vào
Cà muốn ngon nhớ xào
Cho thêm chút mắm muối
Phi hành tỏi cho thơm
Cà chua nhớ coi chừng
Ðừng để cho nát nhừ
Ðừng để vào sớm quá
Nó nát thành “ cà tương”
Oác phải đem xào riêng
Xong để qua một bên
Sau khi đã nêm nếm
Ðừng bỏ vào vào nước dùng
Ðơm bún vào trong tô
Sắp ốc, rắc hành ngò
Ðun nước dùng cho nóng
Khi ăn múc đổ vào
Không thể thiếu giá rau
Hay là bắp chuối bào
Nếu có rau muống chẻ
Thì ngon lành biết bao
Ðừng quên nước chấm gừng
Nếu muốn thêm mắm tôm
Mỗi người ăn một ý
Người nấu cũng tùy nghi
BÚN RIÊU
Hai ký lô cua đồng
Me chín và mắm tôm
Nửa ký cà chua chín
Mắm muối tỏi ngò hành
Cua rửa sạch bỏ mai
Gở gạch bỏ vào tô
Thịt cho vào cối giả
Xong bỏ hết vào soong
Cho nước khoảng ba tô
Giả, lọc lại hai lần
Gạn nước cho hết sạn
Hết thịt cua thì thôi
Cắt sáu theo múi cà
Phi hành tỏi cho thơm
Bỏ vài giọt cua gạch
Cho cà chua vào xào
Bắt nước cua lên đun
Nước sôi bỏ cà vào
Bớt lửa cho nhỏ lại
Cho thêm nước me vào
Nêm sao cho vừa ăn
Hơi ngọt ngọt chua chua
Là bắt nồi cua xuống
Ðể riêng qua một bên
Bắt chảo dầu lên lò
Phi hành tỏi thơm tho
Xào gạch cua sền sệt
Ðể dành đổ mặt trên
Nhớ đừng quên hành ngò
Rắc chút tiêu cho thơm
Aên thua màu cua gạch
Vừa đẹp vừa ăn ngon
Bún cho vào trong tô
Múc nước cua đổ vào
Khi ăn nhớ hâm nóng
Thêm mắm tôm, và rau
PHỞ BÒ
Một kí lô xương bò
Hai củ hành tây to
Thịt phi lê, thịt nạm
Hành lá, rau quế, ngò
Hồi, giá sống, củ gừng
Tương đen, quế, ớt tương
Bánh phở là món chính
Kế đến là nước dùng
Nướng củ gừng, hành tây
Thịt rửa sạch lau ngay
Nấu lửa to vớt bọt
Nước trong mới là hay
Bánh phở đem trụng sơ
Cho tất cả vào tô
Hành lá, thịt xắt mỏng
Thêm ớt, chanh, quế, ngò
Nước phở nêm vừa ăn
Mùi thơm bốc nồng nàn
Nhìn tô phở hấp dẫn
Ít ai ăn một lần
CHẢ THỦ
Lổ mũi, tai, da heo
Nước mắm, đường, muối tiêu
Hành tây, tỏi, gia vị
Lá chuối, dây cần nhiều
Lá chuối phơi xé dài
Xắt mỏng củ hành tây
Mũi, tai, da rửa sạch
Luộc, xắt lát trộn ngay
Bỏ tất cả vào thau
Ðổ dầu ra chảo xào
Khoảng độ hai mươi phút
Mở lá chuối đổ vào
Thịt đang nóng gói liền
Làm hoài tay cũng quen
Eùp gói cho thiệt chặt
Món ngon cả ba miền
VỊT BẢY MÓN
Vịt cắt cổ nhổ lông
Ðể dành bộ đồ lòng
Trộn làm tiết canh vịt
Nhớ đừng quên rượu nồng
Cao sang có vịt quay
Ăn một muốn ăn hoài
Vịt Bắc Kinh dòn rụm
Vịt Tỳ Bà ngon thay
Muốn giản dị, bình dân
Có món vịt xáo măng
Hay vịt chấm nước mắm
Gừng, quan trọng, rất cần
Vịt tiềm, Vịt nấu chao
Bạn ơi thích món nào?
Hay là cho nhẹ bụng
Dùng cháo Vịt xem sao
VỊT TIỀM
Vịt làm sạch nhổ lông
Xắt hạt lựu củ năng
Táo đỏ ngâm cho nở
Bỏ nhụy ngâm kim châm
Bạch quả đem luộc mềm
Xắt hạt lựu củ hành
Dừa xiêm chỉ lấy nước
Nấm đông cô ngâm mềm
Chảo nóng cho mỡ vào
Củ hành lấy mang xào
Thêm tất cả các thứ
Nêm gia vị mặn mòi
Dồn các thứ vào trong
May bụng vịt lại xong
Bắt một chảo dầu nóng
Ðể vịt vào chiên vàng
Mía sắp dưới đáy nồi
Nấu nước cho thiệt sôi
Cho nước dừa, chút muối
Bỏ vịt hấp ngay thôi
Bắt nồi nước thiệt to
Cho nồi vịt vào lò
Nhớ phải chưng cách thủy
Vịt chín nhớ sắp ngò
Vịt chín mềm múc ra
Nhớ nêm cho vừa ăn
Nhớ vịt mềm không rã
Thơm ngon mùi nồng nàn
CHÁO CÁ GIÒ HEO
Giò rửa sạch cạo lông
Chặt khúc cho vào soong
Hầm mềm xắt lát mỏng
Coi chừng bỏng tay phồng
Gạo đổ nước đem vo
Xong rang cho cứng se
Trong chảo dầu thật nóng
Ðập hành lá bỏ vô
Cá sạch cắt đầu đuôi
Luộc chung với giò heo
Cá lóc xương lạng mỏng
Nhớ ướp mắm, gừng, tiêu
Cá chín tới vớt ra
Gạo rang đổi màu ngà
Ðổ gạo vào nồi nước
Nấu cháo cho thật nhừ
Gắp cá bỏ vào tô
Cho hành lá và ngò
Cháo phải để thật nóng
Múc cháo đổ ngay vô
Nêm tiêu vào cho ngon
Rắc chút đậu phọng rang
Cháo nóng cá sẽ chín
Mình đổ mồ hôi ròng
SUÔNG
Tôm lớn một ký lô
Xương heo lựa miếng to
Rửa sạch chặt từng khúc
Nấu sôi trên bếp lò
Rửa sạch lột vỏ tôm
Nước dừa chế vào ngâm
Như vậy tôm mới ngọt
Xong vớt ra lau khô
Nhớ đừng quên tỏi, hành
Gia vị mắm, muối, tiêu
Bỏ vào cối giả nhuyễn
Thêm chút hàn the phi
Nước lèo đã nấu xong
Nhớ lọc nước cho trong
Dùng rây lọc cho kỷ
Nước ngọt sẳn sàng dùng
Thả tôm quết vào nồi
Nước lèo phải thật sôi
Nêm gia vị nước mắm
Vừa ăn là được rồi
Nếu muốn ăn gạch tôm
Bắt chảo mỡ cho sôi
Cho tỏi hành bằm nhỏ
Quậy gạch tôm cho đều
Xong bỏ gạch tôm này
Vào nước lèo sôi, ngay
Món này ăn với bún
Rau xanh, ớt đỏ cay
CHẢ CUA
Chỉ cần vài con cua
Rửa sạch rồi hấp chín
Ðể ráo gở lấy thịt
Ðể riêng qua một bên
Nấm mèo bầm liền liền
Bún tàu phải ngâm nước
Rửa sạch rồi cắt ngắn
Hành tỏi cũng mang bầm
Trộn vào hết một lần
Thịt cua vắt cho ráo
Thịt mở luộc thái sợi
Thêm lòng đỏ đánh tan
Nêm gia vị vừa ăn
Khuôn thiếc thoa đều mở
Ðổ chả, trét lòng đỏ
Ðem hấp hay nướng lò
CHẢ GIÒ CUA BIỂN
Một kí thịt nạc dâm
Củ sắn hoặc củ năng
Một kí lô cua thịt
Hành, tỏi, ớt, đường, chanh
Hai hột gà, nấm mèo
Dấm, bột ngọt, muối tiêu
Cà rốt củ cải trắng
Rau, xà lách, giá, BIA
Rửa, hấp gở thịt cua
Rửa, xắt sợi nấm mèo
Thịt nạc xắt bằm nhỏ
Hành tây xắt cũng bằm
Bún tàu rửa sạch ngâm
Tất cả dùng làm nhân
Thêm củ sắn xắt sợi
Trộn nêm cho vừa ăn
Muốn cho bánh dòn lâu
Trước khi bỏ nhân vào
Thoa ngoài mặt bánh tráng
Chút bia nhớ tráng đều
Nếu bánh tráng quá to
Thì nhớ cắt làm tư
Cho nhân vào cuốn lại
Coi chừng bị bung ra
Bắt chảo dầu lên lò
Khi chiên vàng chả giò
Vớt ra để cho ráo
Nhớ để lửa cho to
ỐC NHỒI
Hôm qua trời đổ mưa dầm
Ra vuờn bắt ốc vào làm thức ăn ….
Hai chục con ốc bưu
Mua về bỏ trong lu
Ngâm nước gạo rửa sạch
Cho nhả hết chất dơ
Làm như vậy hai ngày
Một ngày làm hai lần
Cho chất dơ ra hết
Như vậy mới chắc ăn
Qua đến ngày thứ ba
Vớt hết ốc đem ra
Chặt đít cho thủng lổ
Lễ ốc bỏ ruột dơ
Thịt ốc xắt vừa vừa
Lá gừng non, hột gà
Củ hành tỏi bằm nhỏ
Gia vị nêm nếm qua
Trộn chung với thịt giò
Làm sao cho vừa ăn
Lá gừng ngang miệng ốc
Nhét vào đó viên nhân
Ðặt cái xửng lên lò
Nhớ mở lửa cho to
Bỏ ốc vào xửng hấp
Mười lăm phút lấy ra
LẨU LƯƠN
Một kí lô gam lươn
Hai trăm gam bắp chuối
Gia vị, đường, mắm, muối
Ớt hành lá rau om
Bắp chuối bào đem ngâm
Nhớ pha thêm chút dấm
Luộc nước dầm me sống
Rửa sạch sẽ con lươn
Cắt ra từng khúc dài
Xong để cho ráo nước
Ướp vào nửa muỗng muối
Ðổ nước vào trong soong
Cho lươn vào đun sôi
Chút sau bỏ bắp chuối
Khế, hành lá và ớt
Nêm lại cho vừa ăn
Khi dọn thêm rau om
Aên với cơm hoặc bún
Thức ăn dọn trong lẩu
Trên lò than cháy hồng
CÁC MÓN CHAY
Nếu muốn ăn nhẹ nhàng
Không còn có chi bằng
Aên rau lá hoa quả
Khỏe mạnh thân tráng cường
Các món ăn kể trên
Thế bằng tàu hủ tươi
Thay vì dùng thịt cá
Thử rồi sẽ mê thêm
Khỏi mang tội sát sanh
Vừa bảo đảm yên lành
Ít sanh ra bệnh tật
Mỡ trong máu tan nhanh
CÀ RI CHAY
Một gói bột cà ri
Một muỗng súp bột mì
Ba củ khoai lang bí
Cách làm không có chi
Năm miếng tàu hủ tươi
Thêm nửa trái dừa khô
Vài ba lá tép xả
Hai muỗng bột điều dầu
Dừa vắt nước cốt riêng
Tàu hủ xắt miếng chiên
Khoai lang gọt cắt khúc
Ðể ráo rồi mang chiên
Dầu nóng bỏ hột điều
Xào để lấy nước màu
Chắc nước màu ra chén
Ðổ vào nồi cà ri
Nước dảo dừa nấu sôi
Cho xả, khoai vô nồi
Cho tàu hủ sau chót
Quậy thêm tí bột mì
Nấu mất khoảng hai giờ
Cà ri chấm bánh mì
Hay là ăn với bún
Cay, mặn nồng thơm tho
BÌ CHAY
Năm mươi gam bún tàu
Củ đậu hay củ sắn
Chừng ba củ khoai tây
Thêm một củ cải trắng
Năm miếng tàu hủ chiên
Ðộ một chục tép tỏi
Nếu muốn thêm dừa xiêm
Pha với tàu vị yểu
Bốn muỗng gạo đem rang
Cà nhuyễn ra làm thính
Giá, rau sống dưa leo
Bún luộc là món chính
Gọt vỏ, rửa khoai tây
Mở lửa để chảo nóng
Cho từng nhúm khoai vào
Chiên vàng vớt để ráo
Bún tàu đem chiên vàng
Củ sắn gọt xắt sợi
Xắt sợi tàu hủ chiên
Tỏi đem ra bằm nhỏ
Dừa xiêm cho vào nồi
Nấu đến khi cạn nửa
Cho tàu vị yểu vào
Nêm vừa ăn để nguội
Trộn củ sắn, khoai tây
Tỏi bằm và mắm muối
Tí bột ngọt bún tàu
Nhớ đừng quên rắc thính
Nêm sao cho vừa ăn
Tô sắp bún, rau giá
Kế đến cho thêm bì
Khi ăn chan tương, ớt
CANH KIỂM
Cần khoai môn, khoai lang
Bí đỏ và đậu đủa
Tàu kỷ ky, kim châm
Dừa khô và mướp khía
Ðậu hủ, tai nấm mèo
Bột khoai và đậu phụng
Lá quế và củ gừng
Gia vị với bột khoai
Sửa soạn mất hai giờ
Bột khoai ngâm nước lạnh
Bún tàu ngâm cho mềm
Kim châm ngâm cho nở
Rửa sạch lặt nấm mèo
Tàu hủ ky xé nhỏ
Sau khi đã ngâm mềm
Khoai lang ngâm gọt vỏ
Khoai môn như khoai lang
Bí rợ cũng như thế
Gừng xắt như cọng tăm
Ðậu đủa tướt cắt khúc
Ðậu phộng một nửa rang
Nửa kia ngâm luộc chín
Trước tiên nấu bột khoai
Kế đến là các thứ
Dừa vắt cốt để riêng
Khi tất cả đều chín
Nêm gia vị, cho gừng
Muốn thơm bỏ lá quế
Nhắc xuống bỏ cốt dừa
Khi ăn rắc đậu phọng
Thêm một chút rau tươi
Muốn ngon ăn với bún
GỎI SỨA CHAY
Chừng ba cây mì căn
Dưa chuột và cà rốt
Rau câu, ớt đỏ, chanh
Tàu hủ ky đậu phộng
Bánh tráng nướng, hành tây
Mè, ngò, tàu vị yểu
Bột ngọt, đường, muối, dầu
Cuối cùng đừng quên tỏi
Ðem ngâm nước rau câu
Ðể ráo rồi xắt khúc
Cà rốt xắt giống dưa
Dưa xắt như cọng giá
Mì căn, tàu hủ ky
Cũng xắt sợi như giá
Trước đó nhớ chiên sơ
Ớt đỏ đem xắt sợi
Ðậu phộng phải rang vàng
Sau đó đem đâm nhỏ
Cã rốt dưa trộn chung
Dùng khăn vắt cho ráo
Tất cả đem trộn đều
Nêm muối đường bột ngọt
Làm sao cho vừa ăn
Thêm dầu đã khử tỏi
Lấy dĩa bày gỏi ra
Trên mặt rắc đậu phộng
Và ngò ớt tỉa hoa
Aên với bánh tráng nướng
MẮM THÁI CHAY
Một ký lô dưa leo
Một cây mì căn chín
Ðu đủ, trái thơm to
Chút củ cải muối
Một củ riềng thiệt non
Thêm bốn viên chao đỏ
Gạo ta đem rang vàng
Tán nhuyễn là thành thính
Tỏi bột ngọt, muối đường
Dưa leo nhớ bỏ ruột
Xắt mỏng, bóp vắt khô
Ðu đủ bào gọt mỏng
Xắt sợi như cọng tăm
Trải ra mâm phơi nắng
Trước đó ngâm chút phèn
Mì căn thì xé nhỏ
Ướp tỏi, muối, tiêu, đường
Bắc chảo dầu khử tỏi
Bỏ mì căn vào chiên
Ðem ra để cho nguội
Lấy chao đỏ ướp vào
Củ riềng giả lấy nước
Bỏ xác ra không xài
Củ cải muối ngâm nước
Vắt cho thiệt là khô
Ðem ra thái cho mỏng
Bắt lên bếp chiên vàng
Thơm xắt nhỏ phơi héo
Các thứ được trộn chung
Thêm ớt đỏ thái chỉ
Trộn đều bỏ ve keo
Eùp xuống cho thiệt kỷ
Chỉ cần để qua đêm
Hôm sau là ăn được
Aên thua cách mình nêm
Aên ngon tuyệt hết biết
TRÁNG MIỆNG
CHÈ BỐN MÀU
Bốn màu thật rõ ràng
Xanh, đỏ, trắng chêm vàng
Ngó thiệt là hấp dẫn
Ăn nhiều đời cũng tàn
Tại vì sẽ lên cân
Mỡ trong máu không tan
Mất công đi bác sĩ
Không phải chỉ một lần
Nhưng có nhịn được đâu
Ới ly chè bốn màu
Vừa ngọt buì lại béo
Làm một cái hết ào
Ăn rồi mai tính sau
Mắc chi phải lo âu
Ta sẽ tập thể dục
“ Ca lô ri “ đốt mau
02/07/04
CÀ PHÊ BUỔI SÁNG
Vài giọt cà phê thơm
Chút nước sôi nóng bỏng
Khói tỏa như ảo mộng
Muốn ngọt thêm sữa, đường
Ấm buổi sáng lạnh lùng
Bây giờ mới tỉnh ngủ
Hồn trở về chốn cũ
Giật mình ngó đồng hồ
Bụng cứ tiếc ngẩn ngơ
Chạy vội ra rồ máy
Ðã đến giờ cầy cấy
Một ngày mới bắt đầu
CHÈ THƯNG
Vật liệu phải có đủ
Bột bán rồi bột khoai
Hạt sen và mộc nhĩ
Lá dứa và đậu xanh
Ðường và chút xíu muối
Bột khoai, bán đem ngâm
Dừa đem vắt lấy nước
Hột sen ngâm bỏ tim
Lá dứa cắt từng khúc
Hạt sen nấu chín mềm
Ðậu xanh cần hấp chín
Trộn tất cả nấu đều
Ðược nhắc ra khỏi bếp
Cho nước cốt dừa vào
Múc chè ra từng bát
Aên một cái hết ào
CHÈ TÁO XỌN
Nửa ký lô đậu xanh
Va ni và bột năng
Ðường với hai lít nước
Thêm một trái dừa khô
Ðậu xanh ngâm cho mềm
Ðãi vỏ sạch hơi lâu
Dừa vắt nuớc cốt, dão
Hai chén để ra riêng
Nước nấu sôi tan đường
Quậy vào nửa bột năng
Nhớ lược đường tan bụi
Trộn va ni cho thơm
Lấy xửng hấp đậu xanh
Cho vào nồi nước đường
Thấy sền sệt là được
Chan nước cốt dừa lên
CHÈ TRÔI NƯỚC
Năm mươi gam bột năng
Nửa ký lô bột nếp
Nửa ký lô đậu xanh
Tám trăm gam đường thẻ
Nửa ký lô dừa khô
Mè rang hoặc đậu phọng
Nhớ không thể thiếu gừng
Là xem như hổng đặng
Ðậu xanh đem ngâm mềm
Rồi mang ra đãi vỏ
Mè hay đậu rang vàng
Dừa khô vắt nước cốt
Ðậu nấu chung nước dừa
Rồi đem xay cho nhuyễn
Vo lại để làm nhân
Ðừng khô quá phải mướt
Bột năng đổ ra tô
Ðể làm vỏ bột nếp
Dùng nước sôi chế vô
Nhồi đến khi bột dẻo
Phân bột ra từng viên
Nặn cho mỏng miếng bột
Vo thành từng viên tròn
Khi nhân đã bỏ giữa
Ðặt một nồi nước sôi
Dành để mà luộc bánh
Thả từng chiếc bánh vào
Ðừng để cho bị dính
Vớt bánh ra cho mau
Khi thấy nổi trên mặt
Cho vào nồi nước đường
Như vậy là đã chin
Nhớ đừng quên thả gừng
Chan nước đường ngập bánh
Chan nước dừa sau cùng
Chè ăn thơm và mát
MỘT TUẦN ĂN THỨC ĂN NGOẠI QUỐC
Thứ hai ăn “ hăm bơ gơ” (hamburger)
Thứ ba “ hót đót” chiên bơ kẹp mì (hot dog)
Thứ tư ăn “ spa ghét ti” (spagetti)
Tráng miệng thêm miếng “ cúc kì “ cũng no (cookie)
Thứ năm ăn “ bờ ri tô “ (burrito)
Thứ sáu đồ Mễ, “ ta cô “ nữa à (taco)
Thứ bảy ăn “ là xa nhà” (lasagna)
Chao ơi ớn nổi da gà rồi đây
Chủ nhật đi ăn đồ Tây
Mà sao chán ngấy thế này Trời ơi
Aên thêm một bửa nữa thôi
Chẳng thà nhịn đói chết toi cho rồi
MỘT TUẦN ĂN THỨC ĂN VIỆT NAM
Thứ hai buổi sáng phở bò
Buổi trưa dùng đở bò kho bánh mì
Tối thì ăn bún cà ri
Thứ ba buổi sáng có mì
Hay là hủ tiếu lạ kỳ thơm tho
Buổi trưa vài cuốn chả giò
Ðể dành bụng tối ăn cho no lòng
Có thể ta ăn cơm phần
Cá kho, xào, mặn, rau tần nấu canh
Thứ tư buổi sáng ăn nhanh
Chắc bụng dùng xôi đậu xanh muối mè
Buổi trưa bánh mì ba tê
Gọi thêm tráng miệng ly chè bà ba
Tối về ăn cơm ăn với gà
Chiên, kho, hấp muối hay là nấu chao
Thứ năm hủ tiếu mì xào
Buổi sáng ăn vậy khó mà xuống cân
Trưa dùng tạm cơm tay cầm
Bánh mì thịt nguội, giò bì chả chiên
Tối về ăn mì vịt tiềm
Thứ sáu ngủ dậy lại tìm gì ăn
Loanh quanh luẩn quẩn lăng xăng
Ba chuyện ăn uống lằêng nhằng đì ta
Aên nhẹ hột gà ốp la
Ðợi trưa gọi món cơm gà siu siu
Chiều về ăn tộ bún riêu
Thứ bảy rảnh rỗi giờ nhiều nấu ăn
Ngồi đổ bánh cuốn kẹp nhân
Làm thêm hai món bún thang, cháo lòng
Chủ nhật tưởng được ở không
Bạn mời chả cá Thăng Long đi liền
Không giờ thể dục mới phiền
Lên cân vùn vụt hết tiền vì …… tham ăn
CÁC MÓN ĂN THAY THUỐC
LÁ LỐT xào với thịt bò
Tác dụng: chữa tê thấp
Ðau xương, tay, cẳng giò
Ðầy bụng,.... rất hấp dẫn
Toa thuốc có thịt LƯƠN
Ðể trị bịnh đau thận
Thịt cóc thì ăn ngon
Chữa da bủng, lớn chậm (cho trẻ em)
Muốn cơ thể dẻo dai
Mau mau ăn thịt RẮN
Nhức đau lưng dài dài
Sinh lực tăng chắc chắn
DIẾP CÁ có vị chua
Ăn nhiều trị bệnh trĩ
Có tánh ẩm, hơi the
Giải nhiệt độc, ghẻ lở
HẠT SEN để nấu chè
Có khi dùng làm mứt
Là vị thuốc bổ tì
Trị thần kinh suy nhược
Trái BÍ rợ khi ăn
Ta lấy hột để lại
Thơm ngon khi rang vàng
Ăn trị bịnh sán laỉ
Làm bánh hay nấu xôi
Người ta hay dùng NẾP
Bao tử muốn hết đau
Ăn cơm nếp sẽ khỏi
Có ai biết TÍA TÔ
Chữa nhức đầu, tức ngực
Làm cho ra mồ hôi
Nôn mửa và cảm sốt
Gia vị đuợc dùng nhiều
Phải kể đến HÀNH LÁ
Chữa trúng phong, nhức đầu
Thương hàn và khí độc
Bị cảm cúm nhức đầu
Người ta dùng lá sả
Giúp tiêu hóa thông hơi
Ngoài việc ướp thịt cá
GIÁ sống nấu canh chua
Ăn kèm hủ tiếu, phở
Nhưng khi bị ho khan
Chưng giá sống trong nước
Bỏ chung với đường phèn
Ăn cả nước lẫn cái
Sẽ hết tắt tiếng ngay
Bởi giá có tính mát
HẸ vị cay hơi chua
Mùi hăng và tính ấm
Ăn cầm máu, tiêu đờm
Trị cơn ho suyễn nặng
Khó thở vì bị đờm
Lấy hẹ đem giã nát
Vắt nước uống hết liền
Trị luôn mồ hôi trộm
GỪNG thường được dùng tươi
Xắt lát hoặc vắt nước
Tính ấm, thơm, vị cay
Ấm bụng trừ đờm lạnh
TỎI tính nóng vị cay
Lợi tiểu, tiêu ung nhọt
Trị luôn ho có đờm
Sát trùng, trị cảm cúm
ÐẬU XANH vị ngọt mùi tanh
Uống vào thanh nhiệt giải nhanh bệnh tình
Nấu chín: trị sốt, nhiệt ly
Ngâm nước, giã nát uống thì mát ngay
MƯỚP ÐẮNG hay KHỔ QUA
Tính lạnh và vị đắng
Ăn giải nhiệt, giảm đau
Thanh tâm và sáng mắt
Dùng lá và quả xanh
Khi chín ta lấy hột
Bổ khí và tráng dương
Vị đắng mà tính ấm
Lá dùng trị vết thuơng
Trĩ đau hay rắn cắn
Giã hạt đắp bên ngoài
Trị yết hầu, nhiễm độc
Bổ nhất là MẬT ONG
Ðau bao tử, lao phổi
Hoặc hoà với nước gừng
Uống sẽ hết nấc cục
ÐẬU ÐỎ hột phơi khô
Có thể đem dùng sống
Hoặc đem nó rang qua
Tính bình vị hơi ngọt
Ung nhọt muốn cho tan
Tán đậu đỏ hòa nước
Ðổ thêm chút dấm vào
Ðắp vết thương, hút mủ
RAU LANG lá, củ, dùng
Nhuận tràng bổ tỳ vị
Vị ngọt tính cũng bình
Chính là trị táo bón
(lá luộc, củ nấu ăn)
Tài liệu tham khảo: Cẩm nang các món ăn thay thuốc
Cuả Thanh Thanh
ALL YOU CAN EAT
Bồi bàn đi đâu vắng
Tui nấu kiêm chạy bàn
Mệt thiếu điều đứt thắng
Nên long thể bất an
Tính đổi tên quán ăn
Bán toàn rau lăng nhăng
Gọi ‘Oân Du can ít” (all you can eat)
Khỏi cần mướn bồi bàn
Các món ăn bày ra
Nào xà, lách, quả, hoa
Nấm, đậu ve, bắp cải
Ðủ loại rau và cà
Món này Mỹ ăn nhiều
Nhẹ nhàng lại mau tiêu
Dành cho người “ đai ếch” (diet)
Nấu nướng khỏe đủ điều
NHỮNG MÓN ĂN TỪ TRÁI CÀ CHUA
cà chua trái xanh dòn
rửa sạch ăn trông ngon
cắt dày dày từng miếng
chấm mắm ruốt, tỏI, đường
hoặc là:
muốn ăn cơm thêm ngon
cùng các loại rau thơm
trộn cà chua xắt mỏng
chấm với cá thịt kho
hoặc là:
cà chua rửa bỏ cuống
cắt nhỏ bỏ vào nồI
nhớ thêm một chút nước
lửa nhỏ nấu mềm, sôI
để nguội đem xay nhuyễn
rồi đem lược qua rây
bỏ phần hột và vỏ
có thể dùng được ngay
muốn ngon phi hành tỏi
cho cà đã lược vào
nêm nếm theo khẩu vị
nấu sôi lần nữa nào
để cho đến khi nguội
đổ thêm một lớp dầu
lấy nắp đậy thật kín
mới giữ được dàI lâu
hoặc là:
chọn cà chua lớn trái
cơm dày và trái tròn
ba trăm gam thác lác
tỏI, gia vị và ngò
tỏI lột vỏ xắt nhuyễn
cho nạt cá vào tô
trộn tỏI tiêu, gia vi.
trộn đều thấm mới ngon
cà chua đem rửa sạch
xẻ ngang ra làm hai
móc bỏ ruột làm sốt
ruột này nhớ lượt rây
cà đã móc bỏ ruột
nhồI cá cho vun đầy
làm sao cho đẹp mắt
nhớ ém cho chặt tay
bắc chảo dầu lên bếp
đợi cho dầu nóng, sôI
phần nạc cá úp xuống
chiên cho vàng trở ngay
chín rồI gắp ra đĩa
phần nạt bỏ lên trên
kế đến là đổ xốt
sắp ngò và rắc tiêu
nếu không muốn dùng cá
có thể thay thịt heo
đem về cũng bầm nhuyễn
hoặc có thể dùng tôm
VT Mỹ Ngọc
PAGE
PAGE 108
THƠ THẨN QUANH ÔNG TÁO
Trăm bài thơ nấu ăn
VT Mỹ Ngọc
2004
Quần Âu dáng xuông là item không thể thiếu trong tủ đồ của mọi đấng mày râu bởi sự lịch lãm và khả năng kết hợp dễ dàng cùng các món đồ khác.
Mix áo sơ mi, quần Âu, giầy Oxford và khoác bên ngoài chiếc áo dạ dáng dài, bạn sẽ có ngay set đồ đơn giản mà không bao giờ lỗi mốt.
Cách phối đồ với áo khoác dạ nam dáng dài phong cách và thanh lịch
via
Với cách chăm sóc Corgi, bạn sẽ thông thái hơn về cách nuôi dạy, chăm sóc và khiến Corgi ngoan và nghe lời của bạn hơn. Vậy còn chần chừ gì nữa mà không khám phá ngay kinh nghiệm chăm sóc chó Corgi của Cảnh Khuyển 24h trong bài viết dưới đây!
ĐẶC ĐIỂM CỦA GIỐNG CHÓ CORGI
Đặc điểm chó Corgi
Khi chăm sóc Corgi, bạn cần tìm hiểu kỹ lưỡng không chỉ về đặc điểm ngoại hình mà còn phải lưu ý các thói quen của giống chó chân ngắn này. Và các đặc trưng của Corgi như sau:
Chó Corgi cực kỳ năng động: Có nguồn gốc là chó chăn cừu nên nhu cầu chạy nhảy và vận động cao. Nếu bạn nuôi Corgi trong không gian kín sẽ khiến chúng bị bí bách.
Corgi rất ồn ào: Chúng thường có xu hướng sủa nhiều, sủa dai và sủa to.
Corgi khá nghịch ngợm: Đây cũng có thể coi là tật xấu của chúng, nên khi thấy chúng săn đuổi và cắn gót chân, ống quần của người. thì cũng không có gì quá xa lạ.
Chó Corgi thông minh: Dù khá trung thành và thông minh với chủ nhân, tuy nhiên cũng có lúc chúng vô cùng cứng đầu, bướng bỉnh và không nghe lời.
Pembroke Corgi rất thích kiểm soát: Điều này thể hiện khi chúng thích và bắt nạt các thú cưng khác.
CHĂM SÓC CHÓ CORGI CÓ DỄ KHÔNG?
Chăm sóc chó Corgi có dễ không?
Câu trả lời là CÓ. Có thể nói rằng Corgi là giống chó không kén ăn, khoẻ mạnh và không hay bị ốm vặt. Nhưng bên cạnh đó, chúng có bộ lông dày cần được chải chuốt thường xuyên, thậm chí là chi phí để chăm sóc, tỉa tót lại lông.
Như đã thấy thì Corgi khá năng động nên cần được vui chơi chạy nhảy hàng ngày nên bạn sẽ phải dành nhiều thời gian để dắt chúng ra ngoài hàng ngày thay vì nhốt chúng trong nhà.
MÔI TRƯỜNG VÀ ĐIỀU KIỆN SỐNG THÍCH HỢP VỚI CORGI
Môi trường và điều kiện chăm sóc chó Corgi
Dù là giống chó chân ngắn, có dáng nhỏ nhắn nhưng nguồn gốc từ chó chăn cừu nên Corgi có nhu cầu vận động cao. Chúng có thể phù hợp với bất kỳ môi trường sống nào, miễn là ban thường xuyên cho chúng ra ngoài đi dạo.
Bộ lông của Corgi khá dày, nên cần được chăm sóc trong môi trường thoáng mát. Chính vì vậy, ở Việt Nam mùa hè rất nóng nên hãy để Cori ở trong máy lạnh. Chỗ ngủ của Corgi cũng cần thoáng mát và có chuồng, đệm lót, tránh để chúng ngủ ở nơi ẩm ướt sẽ khiến chúng dễ bị viêm phổi hoặc nấm, ngứa, gây viêm da.
CHÓ CORGI ĂN GÌ?
Chó Corgi ăn gì?
Chú chó Corgi là một chú chó cực kỳ năng động chính vì thế mà chúng ta cần phải có một chế độ ăn uống hợp lý để giúp em ấy duy trì năng lượng cho cơ thể.
Và đối với thức ăn dành cho Corgi có khá nhiều loại. Các bạn có thể lựa chọn các loại thức ăn đóng gói sẵn như hạt khô, pate hoặc cũng có thể tự mình nấu. Tuy nhiên cho dù bạn lựa chọn loại thức ăn nào thì cũng phải tuân thủ những hướng dẫn dưới đây:
1.1. Đối với thức ăn đóng gói sẵn
Ưu điểm của loại thức ăn này là rất tiện lợi nhưng khi mua bạn cần cân nhắc một số yếu tố như:
1.1.1.Đọc kỹ thành phần chất dinh dưỡng có trong thức ăn
Như trong nội dung mở đầu chúng tôi vừa chia sẻ thì thức ăn dành cho Corgi phải là thức ăn giàu Protein từ động vật để có thể cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Chính vì vậy khi lựa chọn bạn cần phải thức ăn đó có chứa thành Protein động vật (là các loại thịt gà, cừu, heo, bò…) được đặt ở ngay 3 thành phần đầu tiên.
Bên cạnh đó cũng cần phải quan tâm đến các thành phần có hại như thức ăn đó có chứa chất tại màu, chất tạo ngọt, chất bảo quản hóa học như Ethoxyquin, BHA, BHT, Propylene glycol, hoặc Natri nitrat/nitrit… hay không?
1.1.2. Không nên lựa chọn thức ăn giá rẻ
Hiện nay trên thị trường có không ít thức ăn dành cho cún cưng với mức giá được bán khá rẻ. Đi kèm với đó là chất lượng kém cũng như có chứa nhiều chất gây hại cho cơ thể. Đặc biệt có nhiều sản phẩm nhái các thương hiệu khác.
Chính vì thế hãy lựa chọn địa chỉ uy tín được nhiều người tin tưởng bạn nhé.
1.2. Đối với thức ăn tự nấu
Việc tự nấu thức ăn cho chó chính là cách nuôi chó Corgi được nhiều người nghĩ đến vì có thể kiểm soát được chất lượng cũng như tiết kiệm được ngân sách. Tuy nhiên nhược điểm của phương án này đó là bạn sẽ tốn một khoảng thời gian cũng như gặp khá nhiều bất tiện khi bảo quản.
Do vậy nếu lựa chọn tự nấu thức ăn thì bạn cần phải đảm bảo thức ăn có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng dưới đây:
Protein: Thịt gà, thịt heo, thịt bò, cá, gan, phổi động vật hoặc các loại trứng,…sẽ là những thức ăn có chứa nhiều protein.
Chất béo: Bộ lông của chó Corgi sẽ luôn mềm mại và khỏe mạnh nếu trong thức ăn có chứa thành phần chất béo. Tuy nhiên bạn nên lựa chọn các loại chất béo đến từ thực vật như dầu olive, dầu dừa…
Vitamin và khoáng chất: Cần phải lựa chọn các loại rau xanh và củ, đặc biệt là cà rốt, bí đỏ, hoặc bông cải xanh để cân bằng dinh dưỡng.
Tinh bột (Carbohydrate): Đối với các bé Corgi thì lượng tinh bột ở mỗi bữa ăn chỉ nên dưới 30%.
CHẾ ĐỘ ĂN TỪNG GIAI ĐOẠN
Chế độ thức ăn từng giai đoạn
Như chúng ta đã biết thì cách nuôi chó corgi con sẽ khác với cách nuôi của chó trưởng thành. Chính vì thế tùy theo từng giai đoạn mà chế độ ăn dành cho các bạn ấy sẽ khác nhau. Cụ thể:
2.1. Đối với chó Corgi sơ sinh dưới 2 tháng tuổi
Ở giai đoạn này các em ấy chưa tách mẹ. Vì thế cách chăm sóc chó corgi con ở giai đoạn này chính là để em ấy bú mẹ. Tuy nhiên nếu phải tách mẹ sớm thì bạn có thể cho Corgi con ăn cháo loãng hầm với nước hầm xương hoặc bổ sung sữa mỗi ngày nhé.
2.2. Giai đoạn dưới 6 tháng tuổi
Giai đoạn này các bạn ấy thường tách đàn để về nhà mới. Tuy nhiên để Corgi không bỏ ăn hoặc bị tiêu chảy, đau bụng thì trong 2 – 3 tuần đầu bạn nên duy trì cho em ấy ăn thức ăn cũ sau đó mới dần thay đổi.
Thức ăn lúc này cần mềm, loãng và cần phải có đầy đủ Protein, rau củ quả để cân bằng dinh dưỡng. Một ngày Corgi con nên ăn từ 2 – 3 bữa và với lượng thức ăn khoảng 2 – 3% trọng lượng của cơ thể và được chia đều thành các bữa.
2.3. Giai đoạn từ 6 tháng đến dưới 1,5 tuổi
Đây chính là thời điểm chú chó Corgi có sự phát triển mạnh mẽ nhất. Chính vì thế khẩu phần thức ăn của bé Corgi lúc này cần phải nhiều và chứa các chất dinh dưỡng để đảm bảo cho cơ thể phát triển khỏe mạnh đạt chuẩn.
Tuy nhiên bạn cần hạn chế các loại thực phẩm có chứa nhiều tinh bột, chất béo vì dễ làm cho các em ấy béo phì. Ngoài ra bên cạnh các bữa ăn chính thì bạn có thể bổ sung thêm sữa chua hay trứng vịt lộn với tần suất 2 – 3 lần/tuần để cho lông bóng mượt, khỏe mạnh…
Giai đoạn này thì bạn cần cho Corgi ăn 2 bữa/ngày với lượng thức ăn bằng 3% cân nặng.
2.4. Giai đoạn trưởng thành
Trong giai đoạn này chế độ ăn của Corgi sẽ không có nhiều sự thay đổi tuy nhiên lượng thức ăn cần phải giảm 20% và cần cố định để tạo thói quen cho bạn ấy.
MỘT SỐ CHÚ Ý KHI CHO CHÓ CORGI ĂN
Lưu ý khi cho chó Corgi ăn?
Do Corgi khá ham ăn và rất dễ béo phì nên bạn cần phải tránh cho chúng ăn tự do. Đặc biệt là các loại thực phẩm cần phải nấu chín và mềm, tránh các loại xương to nhất là xương gà. Cùng với đó là hạn chế các loại thức ăn cay, nóng hoặc một số thức ăn khác như: gia vị, hành, tỏi, nho tươi/khô, socola,…
Chú ý thường xuyên vệ sinh khay thức ăn của Corgi nếu có đồ thừa thì cần đổ ngay. Không nên cho chó Corgi vận động ngay sau khi ăn mà cần nghỉ ngơi từ 2 – 3h rồi mới tập luyện. Nếu phải xa nhà trong thời gian dài, bạn nên gửi chó đến khách sạn chó mèo để bé được cho ăn và vệ sinh khay ăn đúng cách nhé.
HƯỚNG DẪN CÁCH CHĂM SÓC LÔNG CHO CORGI
Chăm sóc lông cho Corgi
Bạn sẽ gặp khó khăn khi chăm sóc chó Corgi lông dài so với Corgi lông ngắn. Tuy nhiên mức độ rụng lông thì cả hai dòng đều như nhau bởi Corgi là giống chó rất hay rụng lông đặc biệt là vào mùa rụng lông của chúng.
Chính vì thế để hạn chế vấn đề này bạn cần sử dụng dầu dừa để chải lông và mát xa nhẹ nhàng. Ngoài ra việc tắm cũng là cách kiểm soát được việc rụng lông tuy nhiên nếu tắm quá nhiều sẽ lại gây tác dụng ngược khiến cho lông mềm yếu và dễ rụng hơn. Do đó cách chăm sóc chó corgi phù hợp là tắm 2 tuần một lần, tất nhiên là trừ trường hợp chó Corgi quá bẩn hoặc vừa rơi vào vũng bùn. Sau khi tắm bạn cần phải sấy lông thật khô bởi nếu còn nước sẽ khiến cho Corgi bị ngứa, nhanh hôi và bị viêm da.
Bên cạnh đó hãy vệ sinh và thường xuyên kiểm tra tai chó Corgi bằng bông gòn và dung dịch dành riêng để hạn chế các bệnh liên quan đến tai nhé.
Đối với răng của Corgi cần phải chải ít nhất 3 lần/tuần để ngăn ngừa sự tích tụ cao răng đồng thời giúp cho nướu khỏe mạnh để ngăn ngừa hôi miệng. Nếu bạn quá bận để làm các việc kể trên thì có thể đưa bé đến spa thú cưng nhé.
Cắt móng cho chó Corgi khoảng 2 tuần 1 lần hoặc khi cảm thấy móng đã dài để tránh trầy xước sàn nhà hoặc con người khi đùa giỡn.
HƯỚNG DẪN CÁCH HUẤN LUYỆN CORGI KHÔN VÀ NGHE LỜI
Huấn luyện chó Corgi nghe lời
Những chú Corgi là giống chó thân thiện và tình cảm vì thế chúng có thể nhanh chóng làm quen với mọi người. Tuy nhiên chúng lại rất thích săn đuổi trẻ em cũng như là các loại thú cưng nhỏ hơn bởi bản tính là săn cừu của mình. Và đôi khi chúng còn khiến các bé bị thương. Chính vì thế chúng ta cần phải thuần hóa Corgi từ sớm để chúng dễ hòa hợp với mọi người.
Tuy là chú chó thông minh nhưng lại khá cứng đầu vì vậy thời gian đầu chúng ta huấn luyện các bạn ấy sẽ khá khó khăn. Do đó bạn có thể sử dụng một ít phần thưởng để Corgi hợp tác hơn.
Chó Corgi yêu cầu được tập thể dục nhiều và thường xuyên, chúng luôn khao khát thực hiện các hoạt động và thử thách, nên việc đào tạo là điều cực kỳ cần thiết với Corgi. Năng lượng không được giải phóng và thiếu huấn luyện có thể khiến Corgi phát sinh nhiều tật xấu như sủa quá nhiều, cắn chân người hoặc cắn phá đồ đạc.
Đơn giản nhất là bạn nên đưa chó Corgi ra ngoài đi dạo khoảng 30ph mỗi ngày hoặc nếu có thời gian và điều kiện hãy tạo ra các thử thách để chó Corgi thực hiện như: ném-nhặt bóng, tìm đồ vật… Ngoài ra, nếu chó Corgi phải ở nhà một mình hãy chuẩn bị các đồ chơi nhai, gặm để Cún tự giải trí chống buồn chán nhé.
TIÊM PHÒNG VÀ KINH NGHIỆM PHÒNG BỆNH CHO CORGI
Tiêm phòng cho Corgi
Để tăng sức đề kháng cũng như phòng ngừa các bệnh thì việc tiêm phòng là điều vô cùng cần thiết. Có 3 loại vacxin cần thiết như 3 in 1, 5 in 1 và 7 in 1 là bắt buộc. Ngoài ra có thể bổ sung vaccine như: Care, gan truyền nhiễm, cúm, Pravo,…
Theo như cách chăm sóc chó Corgi của Kimi Pet thì khoảng 3 tuần tuổi đầu là bắt đầu mũi tiêm đầu tiên. Quá trình sẽ kéo dài đến khi chúng khoảng 3 tháng tuổi là kết thúc mũi cuối. Đến 8 tháng tuổi thì chúng sẽ được tiêm phòng dại. Và bạn cần hỏi ý kiến bác sĩ về việc tẩy giun định kỳ cho chúng.
GIÁ CHÓ CORGI
Giá chó Corgi
Giá bán Corgi quyết định dựa vào nguồn gốc của chúng. Hiện nay có 2 giống phổ biến là nhân giống trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài. Giá dao động như sau:
Corgi sinh ra tại Việt Nam thuần chủng và có giấy tờ là 8 – 10 triệu đồng.
Corgi sinh sản trong nước và giấy VKA là 12 – 14 triệu đồng.
Chó Corgi nhập từ trại chó bản địa của Thái Lan dao động từ 25 – 30 triệu đồng.
Còn Corgi giống nhập Châu Âu sẽ ở mức giá 2000$ – 2500$.
CHÓ CORGI CÓ HAY BỊ BỆNH KHÔNG?
Bản chất thì Corgi là giống chó khỏe mạnh có tuổi thọ cao từ 12-15 tuổi. Tuy không bị bệnh vặt nhưng Corgi vẫn có nguy cơ nhiễm các bệnh di truyền từ bố mẹ hay do virus truyền nhiễm như Parvo, Care, Dại…
CHĂM SÓC CHÓ CORGI CẦN NHỮNG GÌ?
Nuôi chó Corgi cần những gì?
Chăm sóc chó Corgi và những thứ bạn cần chuẩn bị là một không gian sống thoáng mát, nếu có sân vườn thì càng tốt. Cần đầu tư vào chế độ ăn để đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ cho Corgi. Chăm sóc bộ lông kỹ lưỡng không chỉ ảnh hưởng đến ngoại hình mà còn đến sức khoẻ của Corgi.
Thường xuyên chải lông và vệ sinh sạch sẽ giúp Corgi phát triển tốt nhất. Nếu bạn không có kinh nghiệm thì có thể đưa Corgi đi Spa 1 tháng 1 lần để đảm bảo luôn sạch sẽ, lông óng mượt.
Trên đây là những chia sẻ của Cảnh Khuyển 24h về cách chăm sóc chó Corgi bao gồm chế độ dinh dưỡng, cách chăm sóc và vệ sinh chăm sóc chó Corgi khoẻ mạnh. Còn gì thắc mắc hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn tốt nhất. Chúc bạn một ngày mới tốt lành
Đánh giá nội dung này
Nguồn bài viết: Cẩm nang chăm sóc chó Corgi
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
THỜI TRANG VỚ CHO PHÁI NAM AN GIANG
Mua sắm thời trang là nhu cầu thiết yếu của đàn ông và phụ nữ. Việc bạn chọn lựa những trang phục mang lên người thể hiện bạn quan tâm đến thế nào về cách ăn diện của mình khi ra ngoài xã hội. Bên cạnh những bộ quần áo chiếm phần lớn phần trăm tổng quan trên cơ thể, thì vớ lại như một người hùng thầm lặng giúp bạn tự tin hơn khi bước đi trên phố chinh vì điều đó Vớ nam Hàn Quốc tại Socks House An Giang sẽ là nơi giúp bạn hài lòng.
Đa dạng phong cách vớ độc đáo cho các quý ông thòi thượng
CHI TIẾT SẢN PHẦM VỚ NAM HÀN QUỐC
Được sản xuất với chất liệu cotton từ Nhật Bản, những chiếc vớ tại Socks House khiến các quý ông dễ dàng bước đi thoải mái dù mùa đông hay mùa hè. Không hề kém cạnh, chất liệu cotton của vớ cổ dài Hàn Quốc cũng mềm mịn, thoáng mát, thấm mồ hôi tạo nên sự tự tin cho từng bước đi. Ngoài ra, vớ nam Hàn Quốc tại Socks House An Giang còn chinh phục các quý ông bởi sự đa dạng phong cách của thế giới tất.
Tất chất liệu cotton thoáng mát cho phái mạnh năng động suốt ngày dài
ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TẤT NAM AN GIANG
Màu sắc hiện đại, sang trọng phù hợp với xu hướng năng động hiện nay nên vớ cổ ngắn nam Hàn Quốc cũng thích hợp để phối cùng giây thể thao dành cho phái mạnh dù là trẻ tuổi hay trung niên. Chất liệu cotton co giãn, thấm hút mồ hôi, giúp phái mạnh bảo vệ da bàn chân bởi những đôi giày chất liệu da dày, cứng hay hoạt động nhiều.Bên cạnh đó, thời trang vớ tại cửa hàng cũng có nhiều sự lựa chọn: vớ hoạt tiết chấm bi, vớ hóa tiết cách điệu cá mập, vớ họa tiết ngưa vằn,.. Hãy cảm nhận sự thoải mái và tự tin khi bạn trải nghiệm vớ nam Hàn Quốc chính hãng.
Tất họa tiết ngựa vằn khẳng định phong độ của phái mạnh
THIẾT KẾ ĐẶC BIỆT CỦA TẤT NGẮN AN GIANG
Chất liệu cotton của vớ cao cấp Socks House An Giang sẽ giúp các quý ông bảo vệ tốt đôi bàn chân của mình khi di chuyển và hoạt động nhiều. Nếu các quý ông thích lựa chọn những đôi vớ ngắn nhưng sợ sẽ không bo sát cơ thể thì đừng lo ngại với vớ cổ ngắn được sản xuất có bo thun co giãn của Cornsox nhé.Nếu các quý ông thích lựa chọn phong cách tất dài thì đừng bỏ qua thương hiệu tất cao cấp Laon và Victor Albert, họ sẽ làm các quý ông ngạc nhiên đấy.
Tất nam cao cấp tại Socks House là cả thế giới nghệ thuật sáng tạo
Xem thêm: www.sockshouse.vn/blogs/news/vo-nam-han-quoc-an-giang
Thiết kế đẹp mắt, chất vải tốt đi cùng với mức giá vô cùng phải chăng. Sản phẩm áo cờ đỏ sao vàng cách điệu đã và đang được khá nhiều khách hàng đặt may. Đây cũng là một trong các mẫu áo bán chạy nhất của Đồng phục Ocean trong thời gian qua.
1. Điểm nổi bật của của mẫu áo cờ đỏ sao vàng cách điệu
Sản phẩm sở hữu khá nhiều điểm mạnh hơn hẳn so với các sản phẩm cùng loại.
Chất liệu: Với chất vải ~100% Cotton, áo tạo một cảm giác mặc vô cùng thoải mái và dễ chịu. Vải được chủ yếu làm từ sợi bông, giúp tránh được các kích ứng trên da. Cùng với đó là khả năng co giãn rất tốt, giúp bạn có thể tham gia các hoạt động mà vẫn mặc thoải mái. Một số ưu điểm khác có thể kể đến như: Chống nhăn, chống nhàu, chống bẩn...
Màu sắc: Áo cờ đỏ sao vàng cách điệu sở hữu màu đỏ rất sâu. Giống hệt như màu của màu của lá quốc kỳ Việt Nam. Cùng với đó, trên nền đỏ là màu vàng tươi của hình ngôi sao được cách điệu. Chính vì vậy, tạo nên một tổng thể đẹp một cách hoàn hảo.
Thiết kế: Giống như nhiều mẫu áo cờ đỏ sao vàng khác. Áo có thiết kế rất đơn giản, gọn gàng và rất quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam. Họa tiết sao vàng được cách điệu hơn, tạo nên điểm nhấn hơn so với các loại áo cờ đỏ sao vàng khác ngoài thị trường.
Hình in trên áo được in theo công nghệ mới, tạo nên độ sắc nét cao. Ngoài ra, hình in còn tránh bị bong tróc, bị phai màu theo thời gian.
[caption id="attachment_5425" align="aligncenter" width="800"] Áo cờ đỏ sao vàng cách điệu[/caption] [caption id="attachment_5419" align="aligncenter" width="800"] Áo cờ đỏ sao vàng cách điệu cận cảnh[/caption]
2. Sử dụng và bảo quản áo cờ đỏ sao vàng cách điệu đúng cách
Với thiết kế vô cùng quen thuộc, đem lại sự tự hào, lòng yêu nước cho người mặc. Do vậy, bạn hoàn toàn có thể sử dụng áo vào nhiều dịp khác nhau. Sử dụng khi tham dự các lễ hội, sự kiện, đi du lịch, tham gia các buổi cổ động...
Để giữ cho áo bền đẹp lâu nhất, khi giặt bạn nên lột trái áo.
Tránh sử dụng các loại thuốc tẩy, bột giặt mạnh trực tiếp lên áo.
Không vắt áo quá mạnh làm hỏng kết cấu sợi vải.
Khi phơi nên lựa chọn sử dụng các loại mắc, tránh dùng kẹp.
Có thể là/ủi áo nhưng nên để nhiệt độ không quá 80oC.
Ngoài mẫu áo cơ đỏ sao vàng cách điệu trên, bạn cũng có thể tham khảo thêm mẫu áo cờ đỏ sao vàng đặc. Đây cũng là một trong các mẫu áo được nhiều khách hàng lựa chọn tại Đồng phục Ocean.
Đôi giày MLB Bigball Chunky - phiên bản New York Yankees màu đen đang được đánh giá cao và là một trong những sản phẩm giày thể thao được ưa chuộng trên thị trường hiện nay. Với thiết kế chunky mạnh mẽ và hiện đại, đôi giày này hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn sự thoải mái và phong cách đầy cá tính.
Với chất liệu da tổng hợp cao cấp, đôi giày MLB Bigball Chunky đảm bảo độ bền và khả năng chống thấm nước, giúp bàn chân của bạn luôn khô ráo và thoải mái trong mọi hoạt động. Đế giày dày và đầu giày rộng giúp giảm thiểu những chấn động khi di chuyển và giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn, đặc biệt trong những hoạt động thể thao.
Ngoài ra, đôi giày này còn là một sản phẩm mang tính biểu tượng, thể hiện tình yêu và lòng trung thành của người hâm mộ với đội bóng New York Yankees. Với logo được in trên giày, đôi giày này không chỉ là một sản phẩm giày thể thao đẳng cấp, mà còn là một món đồ thể hiện niềm đam mê và tinh thần thể thao của bạn.
Được thiết kế đơn giản và tinh tế, đôi giày này dễ dàng phối đồ với nhiều trang phục khác nhau, từ quần jeans cho đến váy hay chân váy. Bạn có thể kết hợp đôi giày này với một áo hoodie đơn giản và một chiếc quần jogger để tạo nên phong cách đường phố thời thượng, hoặc kết hợp với một chiếc váy maxi để tạo nên phong cách nữ tính và thanh lịch.
Nếu bạn đang quan tâm đến đôi giày MLB Bigball Chunky - phiên bản New York Yankees màu đen, bạn có thể tìm hiểu thêm về sản phẩm và đặt mua trực tiếp tại trang web pilisneaker.com/giay-mlb-bigball-chunky-a-new-york-yankee.... Trang web này cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm, giá cả và cách đặt hàng, giúp bạn có thể dễ dàng tìm hiểu và đặt mua sản phẩm một cách nhanh chóng và tiện lợi.
Facebook: www.facebook.com/pilisneaker
Map : www.google.com/maps?cid=15153938587451393014
Pinterest: www.pinterest.com/pilisneaker/
Linkedin: www.linkedin.com/in/pilisneaker/
Tumblr :www.tumblr.com/pilisneaker
Twitter: twitter.com/PiliSneaker
Website : pilisneaker.com/
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
Phối đồ với áo dạ nam dáng dài sẽ luôn là lựa chọn được ưu tiên rất nhiều của cánh mày râu bởi chúng sẽ giúp cho các chàng vừa ấm áp không lạnh vừa trẻ trung trung sang trọng cá tính mạnh mẽ hơn khi ra đường.
Cách phối đồ với áo khoác dạ dài nam với các kiểu quần và giầy
via
Xu hướng áo gió thể thao 2024 hứa hẹn mang đến những cải tiến vượt trội về thiết kế và chất liệu, đáp ứng nhu cầu của những người yêu thích vận động và thể thao. Cùng mayaokhoacdongphuc tìm hiểu những điểm nổi bật và lựa chọn cho mình chiếc áo gió phù hợp để luôn thoải mái và phong cách khi luyện tập!
Chất liệu cao cấp – yếu tố quyết định chất lượng của xu hướng áo gió thể thao 2024
Xu hướng áo gió thể thao 2024 tập trung vào chất liệu có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu vận động của các tín đồ yêu thích luyện tập thể thao.
Vải chống thấm nước và thoáng khí
Một trong những yếu tố quan trọng khi chọn áo gió thể thao là chất liệu vải. Năm 2024, các mẫu áo gió thể thao được làm từ vải có khả năng chống thấm nước vượt trội nhưng vẫn đảm bảo độ thoáng khí. Điều này giúp người mặc luôn cảm thấy khô ráo và thoải mái, ngay cả khi thời tiết không mấy thuận lợi.
Vải co giãn linh hoạt
Đối với những người yêu thích vận động, chất liệu vải co giãn là yếu tố không thể thiếu. Áo gió thể thao 2024 được thiết kế với chất liệu co giãn, cho phép người mặc di chuyển một cách thoải mái mà không gặp phải cảm giác gò bó. Điều này đặc biệt quan trọng trong các hoạt động thể thao đòi hỏi sự linh hoạt cao.
Vải tái chế – xu hướng bền vững
Với sự gia tăng ý thức về bảo vệ môi trường, việc sử dụng vải tái chế để sản xuất áo gió thể thao đang trở thành xu hướng phổ biến. Nhiều thương hiệu lớn đã và đang tích cực áp dụng chất liệu này để tạo ra các mẫu áo vừa thân thiện với môi trường, vừa bền đẹp và chất lượng.
Chất liệu cao cấp – yếu tố quyết định chất lượng của xu hướng áo gió thể thao 2024
Ưu và nhược điểm của các loại áo gió thể thao
Ưu điểm của áo gió thể thao
Vải PVC (Polyvinyl Chloride):
Giá cả hợp lý và sản xuất dễ dàng: Vải PVC có giá thành phải chăng, phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng, đồng thời quá trình sản xuất cũng rất hiệu quả.
Khả năng chống hóa chất và độ bền cao: Áo gió từ PVC có khả năng chống hóa chất tốt, giữ được hình dáng ban đầu và dễ dàng gấp gọn, giúp tiết kiệm thời gian bảo quản.
Chống tia cực tím tốt: Vải PVC có khả năng chống tia UV, mang lại sự bảo vệ hiệu quả hơn so với nhiều loại vải khác, đồng thời có độ bền cao và trọng lượng nhẹ.
Vải nylon:
Không dễ nhăn: Áo gió làm từ nylon giữ form dáng tốt và ít bị nhăn, giữ cho vẻ ngoài luôn gọn gàng và chỉn chu.
Đa dạng về màu sắc: Nylon dễ nhuộm màu, giúp tạo ra nhiều lựa chọn về màu sắc, phù hợp với phong cách và sở thích cá nhân của người mặc.
Ưu và nhược điểm của các loại áo gió thể thao
Nhược điểm của áo gió thể thao
Vải PVC:
Khả năng thấm hút mồ hôi kém: Áo gió từ PVC không thấm hút mồ hôi tốt, có thể gây cảm giác khó chịu khi vận động nhiều hoặc trong thời tiết nóng.
Làm lộ khuyết điểm cơ thể: Do thiết kế thẳng và suông, áo gió PVC có thể làm lộ khuyết điểm cơ thể, không ôm sát và tôn dáng người mặc.
Vải nylon:
Chịu nhiệt kém: Nylon không chịu được nhiệt độ cao, khiến áo gió từ chất liệu này không phù hợp cho những ngày trời nắng gắt.
Không thân thiện với môi trường: Nylon có khả năng phân hủy sinh học kém, gây tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên.
Thấm hút mồ hôi không tốt: Tương tự như PVC, vải ni lông cũng thấm hút mồ hôi kém, dễ gây cảm giác bí bách và khó chịu khi sử dụng trong điều kiện thời tiết ẩm ướt hoặc nóng bức.
Thiết kế đa dạng và hiện đại của xu hướng áo gió thể thao 2024
Thiết kế ôm sát nhưng thoải mái
Xu hướng áo gió thể thao 2024 đặc biệt chú trọng vào thiết kế ôm sát cơ thể nhưng vẫn đảm bảo sự thoải mái tuyệt đối. Kiểu dáng này không chỉ giúp tôn lên vóc dáng mà còn hỗ trợ tối đa trong quá trình vận động, giúp bạn tự tin hơn trong các buổi tập luyện.
Áo gió có mũ và khóa kéo tiện lợi
Thiết kế áo gió thể thao đi kèm với mũ và khóa kéo tiện lợi luôn là lựa chọn ưu tiên cho những ai yêu thích hoạt động ngoài trời. Mũ áo giúp bảo vệ bạn khỏi gió lạnh, còn khóa kéo linh hoạt cho phép bạn dễ dàng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể khi cần thiết.
Màu sắc thời thượng và phong cách
Màu sắc của áo gió thể thao 2024 cũng rất đa dạng, từ các tông màu trung tính như đen, xám đến những màu sắc tươi sáng như đỏ, xanh dương. Sự phong phú về màu sắc này giúp bạn dễ dàng phối hợp áo gió với nhiều trang phục khác nhau, thể hiện phong cách cá nhân một cách độc đáo.
Thiết kế đa dạng và hiện đại của xu hướng áo gió thể thao 2024
Tính năng đặc biệt của áo gió thể thao 2024
Khả năng chống tia UV
Trong năm 2024, áo gió thể thao được thiết kế với tính năng chống tia UV, giúp bảo vệ làn da khỏi tác hại của ánh nắng mặt trời. Đây là một điểm nhấn quan trọng, đảm bảo người mặc có thể thoải mái vận động dưới ánh nắng mà không lo lắng về tác động xấu từ tia cực tím.
Khả năng thấm hút mồ hôi
Khả năng thấm hút mồ hôi là một yếu tố không thể thiếu đối với những người tập luyện thường xuyên. Áo gió thể thao 2024 sử dụng các loại vải có khả năng thấm hút tốt, giúp cơ thể luôn khô ráo, tránh cảm giác bết dính và khó chịu, từ đó mang lại sự thoải mái suốt quá trình vận động.
Khả năng phản quang an toàn
An toàn luôn là ưu tiên hàng đầu trong các thiết kế áo gió thể thao. Áo gió thể thao 2024 được trang bị các chi tiết phản quang, giúp người mặc dễ dàng được nhận biết trong điều kiện ánh sáng yếu, đặc biệt là khi tham gia các hoạt động vào ban đêm, tăng cường sự an toàn cho bạn.
Tính năng đặc biệt của áo gió thể thao 2024
Đối tượng phù hợp với áo gió thể thao 2024
Người yêu thích chạy bộ và thể thao ngoài trời
Những người thường xuyên chạy bộ hoặc tham gia các môn thể thao ngoài trời sẽ thấy áo gió thể thao 2024 là lựa chọn hoàn hảo. Với các tính năng như chống gió, chống nước và thấm hút mồ hôi, áo gió giúp duy trì sự thoải mái và bảo vệ cơ thể trong mọi điều kiện thời tiết.
Người yêu thích phong cách thể thao
Nếu bạn là người yêu thích phong cách thể thao, áo gió thể thao sẽ là món đồ không thể thiếu trong tủ quần áo của bạn. Dù là khi đi tập thể dục hay đi dạo phố, chiếc áo gió vẫn mang lại vẻ ngoài khỏe khoắn, năng động và hiện đại, giúp bạn luôn tự tin và nổi bật.
Người quan tâm đến sức khỏe khi vận động
Những ai chú trọng đến việc bảo vệ sức khỏe và cần một lớp áo bảo vệ khỏi các yếu tố thời tiết như tia UV hay gió lạnh, sẽ đặc biệt đánh giá cao các tính năng của áo gió thể thao 2024. Các tính năng như chống tia UV, chống gió và thấm hút mồ hôi sẽ giúp bạn vận động thoải mái và an toàn hơn.
Đối tượng phù hợp với áo gió thể thao 2024
Xu hướng áo gió thể thao 2024- Oufit phù hợp
Cảm giác thoải mái và phong cách không chỉ nằm ở chiếc áo gió thể thao bạn chọn, mà còn phụ thuộc vào cách bạn phối đồ. Dưới đây là một số gợi ý về các outfit đỉnh cao khi kết hợp áo gió thể thao với các loại quần phổ biến:
Quần jogger thể thao
Quần jogger thể thao là lựa chọn hoàn hảo cho sự thoải mái và phong cách năng động. Khi phối cùng áo gió thể thao, bạn sẽ có một bộ trang phục vừa hiện đại vừa thoải mái, lý tưởng cho các hoạt động thể thao và hàng ngày.
Quần jean ống rộng
Kết hợp áo gió thể thao với quần jean ống rộng tạo ra một sự kết hợp độc đáo giữa phong cách cá tính và sự thoải mái. Đây là set đồ hoàn hảo cho những ngày bạn muốn tỏa sáng với phong cách đường phố, nhưng vẫn giữ được sự thoải mái khi di chuyển.
Quần short thể thao
Quần short thể thao không chỉ mát mẻ trong mùa hè mà còn mang đến sự thoải mái và tự do trong mọi hoạt động. Kết hợp cùng áo gió thể thao, bạn sẽ có một outfit lý tưởng cho những buổi dã ngoại hoặc các hoạt động thể thao nhẹ nhàng.
Quần legging cao cấp
Nếu bạn muốn có một set đồ vừa gọn gàng vừa thời trang, quần legging cao cấp là lựa chọn hoàn hảo. Khi phối với áo gió thể thao, bạn sẽ có một bộ trang phục thể thao tinh tế và hiện đại, phù hợp cho các buổi tập luyện hay hoạt động hàng ngày.
Phụ kiện đi kèm
Đừng quên thêm vào outfit của bạn những phụ kiện như mũ lưỡi trai, kính râm,túi đeo chéo hoặc đồng hồ thể thao. Những món đồ này không chỉ tăng tính thời trang mà còn giúp bảo vệ bạn trong quá trình vận động, hoàn thiện phong cách thể thao năng động của bạn.
Xu hướng áo gió thể thao 2024- Oufit phù hợp
Xu hướng áo gió thể thao 2024- Cách chọn áo phù hợp
Xác định nhu cầu sử dụng
Trước khi mua áo gió, hãy xác định mục đích sử dụng của bạn. Nếu bạn cần áo để du lịch hay tham gia các hoạt động ngoài trời, hãy chọn loại có chất liệu chống nước và chống gió tốt.
Tham khảo bảng size áo gió
Kích thước áo là yếu tố quan trọng, vì vậy hãy tham khảo bảng size của thương hiệu mà bạn chọn. Mỗi thương hiệu có thể có bảng size khác nhau, vì vậy hãy đảm bảo chọn size phù hợp với cơ thể để có cảm giác thoải mái nhất khi mặc.
Đánh giá chất liệu
Chất liệu là yếu tố then chốt khi chọn áo gió thể thao. Hãy chọn loại vải có khả năng chống nước, chống gió và thoáng khí tốt như nylon, polyester, hoặc Gore-Tex. Kiểm tra độ bền, độ đàn hồi và khả năng chống nhăn của vải để đảm bảo áo có thể chịu được điều kiện khắc nghiệt và sử dụng lâu dài.
Kiểu dáng và màu sắc
Chọn kiểu dáng và màu sắc phản ánh phong cách cá nhân của bạn. Các chi tiết như logo, đường may, và phối màu có thể tạo nên sự ấn tượng và thể hiện cá tính riêng.
Kiểm tra độ bền
Một chiếc áo gió thể thao chất lượng cao cần có độ bền tốt, khả năng chịu mài mòn và chống lại các điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Hãy kiểm tra đường may, khóa kéo, và các chi tiết khác để đảm bảo áo có thể đồng hành cùng bạn trong thời gian dài.
Tính năng bổ sung
Xem xét các tính năng thông minh như chống tia UV, khả năng chống mưa, hoặc khả năng gấp gọn để tiện lợi mang theo. Những tính năng này sẽ nâng cao trải nghiệm và đảm bảo áo gió đáp ứng tốt nhu cầu của bạn.
Xu hướng áo gió thể thao 2024- Cách chọn áo phù hợp
Nên mua áo gió thể thao ở đâu uy tín, chất lượng?
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Garico là một địa chỉ uy tín trong ngành may mặc tại Việt Nam, chuyên cung cấp các sản phẩm áo gió thể thao chất lượng cao. Với nhiều năm kinh nghiệm và đội ngũ nhân viên tay nghề cao, Garico tự hào mang đến những mẫu áo gió được làm từ chất liệu cao cấp, chống nước, chống gió, đảm bảo sự thoải mái và bền bỉ cho người mặc. Công ty cũng nổi bật với dịch vụ khách hàng tận tâm, luôn lắng nghe và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng mà không yêu cầu số lượng đặt hàng tối thiểu.
Nên mua áo gió thể thao ở đâu uy tín, chất lượng?
Kết luận
Xu hướng áo gió thể thao 2024 không chỉ mang lại sự thoải mái và bền bỉ mà còn đáp ứng nhu cầu thời trang của người yêu thể thao. Với chất liệu cao cấp, thiết kế hiện đại và tính năng đa dạng, áo gió thể thao sẽ là người bạn đồng hành lý tưởng cho mọi hoạt động vận động của bạn. Hãy chọn lựa ngay cho mình một chiếc áo phù hợp với phong cách của mình, bạn nhé!
THÔNG TIN LIÊN HỆ
CÔNG TY TNHH SX-TM GARICO
Địa Chỉ: Số 222 Trường Chinh, Phường Tân Hưng Thuận, Quận 12, TP. Hồ Chí Minh
Địa Chỉ Xưởng: 52/3 ĐHT 21, Phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, TP. Hồ Chí Minh
Hotline: 0907913918
Email: toanlamqn@gmail.com
Website: ift.tt/dZnbkVK
> Xem thêm:
Cách bảo quản áo gió đúng cách
Xu hướng áo gió 2024
Xu hướng áo gió nam 2024
Xu hướng áo gió nữ 2024
Cách giặt áo gió
Rate this post
Trong bài viết dưới đây, Wiix Gift sẽ gợi ý cho bạn độc 10 món quà tặng sinh nhật cho chồng giúp bạn có thêm những lựa chọn đáng giá, ghi dấu đặc biệt trong ngày vui của anh ấy. Đồng thời, cũng tại bài viết, chúng tôi cũng sẽ chia sẻ các mẹo nhỏ để bạn món quà thêm phần độc đáo.
Gợi Ý Quà Sinh Nhật Chồng Ý Nghĩa, Gói Trọn Yêu Thương
Mỗi món quà sinh nhật chồng được Wiix Gift đưa vào danh sách không những thiết thực trong cuộc sống hàng ngày mà còn chất chứa nhiều thông điệp sâu sắc.
Cà Vạt Nam
Một chiếc cà vạt được chọn lựa kỹ càng không chỉ là phụ kiện hoàn thiện vẻ ngoài lịch lãm của người đàn ông mà còn là biểu tượng của sự tinh tế và chuyên nghiệp. Chọn một chiếc cà vạt làm quà sinh nhật, bạn như đang khích lệ anh ấy tự tin hơn trong mọi cuộc họp quan trọng hay sự kiện đặc biệt.
Bạn nên ưu tiên các chất liệu cao cấp như lụa, Cashmere cũng như màu sắc và họa tiết phù hợp với tính cách, sở thích của anh ấy để đem lại cảm giác sang trọng, thoải mái mỗi khi sử dụng.
Kẹp Cà Vạt
Chiếc kẹp cà vạt chất lượng với thiết kế đơn giản nhưng thanh lịch có thể làm nổi bật bộ trang phục và tăng thêm vẻ tự tin cho chồng bạn. Chiếc kẹp giữ cho chiếc cà vạt luôn được gọn gàng, ngăn nắp trong mỗi bước di chuyển.
Khi lựa chọn kẹp cà vạt là quà sinh nhật chồng, hãy chọn các chất liệu như bạc, vàng, thép không gỉ để giúp cho món quà được bền lâu hơn. Bên cạnh đó, kích thước của kẹp cũng cần phù hợp với những chiếc cà vạt mà anh ấy thường xuyên sử dụng.
Khuy Măng Set
Khuy măng set là món phụ kiện tinh tế mà bất kỳ quý ông nào cũng cần trong bộ sưu tập của mình. Đôi cufflinks sẽ giúp cố định phần cổ tay áo sơ mi, tạo nên điểm nhấn thời trang nổi bật nhưng lại không quá phô trương.
Món quà là cách bạn góp phần nâng tầm phong cách thời trang của anh ấy đồng thời khẳng định sự quan tâm đến hình ảnh và sự tự tin của chồng mình. Một số mẫu khuy măng set được phái mạnh yêu thích trong thời gian gần đây mà bạn có thể lựa chọn: Khuy măng set khảm xà cừ, khuy măng set khảm trai, khuy măng set đính đá quý,...
Thắt Lưng Nam
Thắt lưng nam là món quà sinh nhật chồng thiết thực và ý nghĩa. Chiếc thắt lưng được làm từ chất liệu da thật, da PU cao cấp cùng khóa kim loại chắc chắn mang đến vẻ đẹp lịch lãm, dễ dàng phối hợp và tạo nên điểm nhấn cho nhiều loại trang phục khác nhau.
Bạn có thể chọn chiếc thắt lưng có màu sắc trung tính như đen hoặc nâu để đảm bảo tính ứng dụng cao, hoặc lựa chọn những mẫu thiết kế độc đáo hơn nếu chồng bạn thích sự nổi bật.
Khăn Choàng Nam Len Cashmere
Khăn choàng len Cashmere là biểu tượng của sự ấm áp và sang trọng, một món quà tặng cao cấp và lý tưởng để thể hiện tình yêu và sự quan tâm bạn dành cho chồng.
Len Cashmere nổi tiếng với độ mềm mại, nhẹ nhàng và khả năng giữ nhiệt tuyệt vời mang lại cảm giác thoải mái trong suốt ngày đồng dài. Thêm vào đó, với mang màu sắc trung tính và họa tiết thanh lịch, chiếc khăn còn hoàn thiện phong cách thời trang mùa lạnh của người đàn ông một cách tinh tế.
Kính Mắt Thời Trang
Kính mắt thời trang không chỉ là phụ kiện bảo vệ mắt khỏi ánh nắng mặt trời mà còn là một điểm nhấn ấn tượng trong tổng thể phong cách của người dùng. Chọn một chiếc kính phù hợp với khuôn mặt và phong cách của chồng, bạn có thể khiến anh ấy trông trẻ trung, năng động và hợp thời hơn.
Chọn kính mắt làm quà sinh nhật chồng, bạn còn thể hiện thể hiện sự quan tâm của bạn đến sức khỏe và ngoại hình của anh ấy.
Dây Đồng Hồ Khắc Tên
Dây đồng hồ khắc tên là món quà sinh nhật chồng tinh tế, đặc biệt. Bạn có thể lựa chọn dây đồng hồ được làm từ da hoặc kim loại cao cấp và khắc tên hoặc một ngày đặc biệt lên đó. Việc này không chỉ khiến chiếc đồng hồ trở nên độc đáo và cá nhân hóa mà còn gợi nhớ về khoảnh khắc đặc biệt mỗi khi chồng bạn đeo đồng hồ.
Bút Ký Tên Cao Cấp
Nếu chồng bạn làm việc trong lĩnh vực kinh doanh hoặc giáo dục, hãy dành tặng anh ấy một chiếc bút ký tên cao cấp. Chiếc bút đại diện cho tri thức, niềm đam mê học hỏi, không ngừng tiến về phía trước và chinh phục thành công sự nghiệp.
Với sự tinh xảo trong từng chi tiết thiết kế cùng các chất liệu quý như vàng, bạc, đồng thau, thép không gỉ, chiếc bút còn khẳng định vị trí của người sở hữu. Ngòi bút được chế tác thông minh dưới công nghệ hiện đại cho trải nghiệm viết mượt mà, trơn tru, đầy cảm hứng.
Nước Hoa Nam Cao Cấp
Chai nước hoa nam cao cấp với mùi hương lôi cuốn là lựa chọn quà sinh nhật chồng lý tưởng, giúp anh ấy tự tin tỏa sáng trong mọi hoàn cảnh. Hãy lựa chọn mùi hương phù hợp với tính cách và lối sống của chồng bạn, từ những hương thơm nồng nàn và mạnh mẽ cho đến những mùi hương tươi mát và nhẹ nhàng.
Món quà thể hiện sự tinh tế và chu đáo của bạn, khiến mỗi lần sử dụng, anh ấy đều nhớ về tình cảm và sự quan tâm mà bạn dành cho mình.
Đèn Decor Bàn Làm Việc
Một chiếc đèn decor bàn làm việc vừa cung cấp ánh sáng cần thiết cho không gian làm việc vừa là một vật trang trí tinh tế, góp phần tạo nên một môi trường làm việc thoải mái. Tặng chồng một món quà lưu niệm ý nghĩa như vậy trong ngày sinh nhật có thể giúp anh ấy cảm thấy được yêu thương và trân trọng đồng thời thể hiện sự quan tâm của bạn đến không gian riêng tư và sự nghiệp của anh ấy.
Nếu chọn đèn decor làm quà sinh nhật chồng, bạn có thể lựa chọn các mẫu đèn: Đèn Ambient Retro LED phong cách cổ điển, đèn bàn bằng nhôm nguyên khối phong cách châu Âu, đèn để bàn cao cấp hình chú chim bằng nhôm nguyên khối,...
Một Số Mẹo Giúp Món Quà Sinh Nhật Chồng Thêm Phần Độc Đáo
Để làm cho món quà sinh nhật chồng thêm phần độc đáo và ý nghĩa, bạn có thể áp dụng một số mẹo nhỏ sau đây. Những gợi ý này sẽ giúp bạn tạo nên sự bất ngờ và đem lại niềm vui cho người bạn đời của mình:
Cá nhân hóa món quà: Việc khắc tên, ngày sinh nhật hoặc một thông điệp yêu thương lên món quà không chỉ thể hiện sự chu đáo mà còn làm cho món quà trở nên riêng biệt và độc nhất.
Kết hợp nhiều món quà nhỏ thành một: Thay vì tặng một món quà lớn, bạn có thể lựa chọn nhiều món quà nhỏ hơn, mỗi món mang một ý nghĩa riêng biệt. Việc này không chỉ tạo sự bất ngờ mà còn cho thấy bạn đã dành nhiều tâm huyết để chuẩn bị cho ngày vui này.
Kết hợp với một trải nghiệm đáng nhớ: Tạo thêm một trải nghiệm cùng quà tặng mà bạn đã chuẩn bị sẽ để lại ấn tượng sâu sắc hơn bao giờ hết. Chẳng hạn, bạn có thể tổ chức một bữa tối lãng mạn, một chuyến đi ngắn ngày hay một buổi xem phim, rồi chọn một thời điểm thích hợp để trao tặng món quà của mình.
Kết hợp sở thích của anh ấy vào quà tặng: Chọn một món quà liên quan đến sở thích hoặc đam mê của chồng bạn. Dù đó là một món đồ liên quan đến thể thao, âm nhạc hay công nghệ, việc này thể hiện bạn thực sự hiểu và quan tâm đến anh ấy.
Đóng gói quà một cách sáng tạo: Bao bì và cách trình bày món quà cũng rất quan trọng. Một cách đóng gói độc đáo và sáng tạo không chỉ làm tăng thêm giá trị của món quà mà còn cho thấy tình cảm bạn đã đặt vào đó.
Vừa rồi là những ý tưởng về quà sinh nhật chồng mà Wiix Gift muốn gửi đến bạn đọc. Chúng tôi mong rằng, sau khi tham khảo bài viết, bạn đã chọn được quà tặng tinh tế và vừa ý để gửi đến một nửa yêu thương!
Nguồn:
https://wiixgift.com/top-10-qua-sinh-nhat-chong-gay-bat-ngo-xuc-dong-18771
Ngày mới ra trường tôi kiếm việc khá dễ dàng, được làm với cơ quan Chính phủ, mỗi ngày lái xe đi đây đó chứ không bị ngồi tám tiếng quanh 4 bức tường nên thích lắm!
Công việc của tôi là đi "xét" các nhà bếp của tiệm ăn, các "hồ bơi", nói chung những gì "công cộng" là tôi phải đến xem và..."cho điểm" để chắc chắn là "có vệ sinh" an toàn sức khỏe cho công chúng, bạn thấy tôi oai ghê chưa!
Sáng nay tôi được giao cho một địa điểm mới, thường tôi hay đi sớm để tìm chỗ, sợ nhất là bị lạc, cái thời chưa có "GPS" tất cả phải dùng bản đồ giấy! Tôi chạy qua lại cái địa chỉ này 2, 3 lần mà sao không thấy bảng hiệu, số nhà thì đúng đây rồi? Bức tường cao che kín một khu vực khá lớn, cái cổng sắt chỉ có 1 lỗ nhỏ để trong nhìn ra, tôi ngập ngừng bấm chuông, chập sau có 1 bà trọng tuổi kéo lỗ cửa hỏi tôi cần gì, chỉ nhìn thấy bà ta là tôi vội vàng xin lỗi đoán chắc mình nhầm chỗ!
Quá lâu vẫn tìm không ra, tôi lại phải bấm chuông trở lại và hỏi người đàn bà lúc nãy có phải địa chỉ này đúng theo trên giấy tờ không, bà ta bảo đúng rồi và mở cửa cho tôi chạy xe vào, đây là một công viên khá lớn, được rào lại bằng những hàng rào cao, chỉ khi qua khỏi cái cỗng khóa mới thấy được hoạt động bên trong, lác đác người nằm phơi nắng chung quanh hồ bơi.
Tim tôi đập mạnh, nghe nóng rần trong người, chắc mặt tôi đang đỏ lắm, chẳng phải vì nắng! Nhìn quanh sao toàn người "nghèo", chẳng 1 mảnh vải che thân! Tôi phải ráng làm ra vẻ tỉnh bơ, đi theo người đàn bà vào gặp chủ nhân.
Chủ nhân đang nằm thoải mái phơi nắng ở hồ bơi, bắt tay mời tôi ngồi xuống, lại còn bảo:
- Ở đây muốn thoải mái giống chúng tôi thì cô cứ tự nhiên.
Tôi lí nhí cám ơn và đưa giấy tự giới thiệu mình là nhân viên chính phủ, hôm nay được phép xuống xét nhà bếp và hồ bơi nơi đây, chủ nhân gọi người đến dẫn tôi đến khu vực nhà bếp, tôi cứ ríu ríu đi theo, mắt giả lơ ngó chỗ khác vì chung quanh tôi ai cũng "thoát y", rốt cuộc chỉ có mình tôi là không giống ai!
May mắn sao lúc vào nhà bếp, đầu bếp là 1 người trung niên có mặc quần áo đàng hoàng, tôi hỏi và xem xét các thứ chung quanh, trong câu chuyện chàng trung niên thành thật khai báo:
- Lúc trước tôi nấu nướng nào có mặc gì, rồi một hôm đang nướng Bacon nó văng bắn vào người nóng cháy da nên từ đó tôi phải mặc đồ khi nấu nướng đó chứ!!!
Tôi thì chỉ mong làm xong công việc nhanh chóng để ra khỏi chỗ này cho rồi, khám xét xong tôi xin lên gặp người phụ tá để đưa giấy tờ cho họ ký rồi chuồng lẹ, khỏi cần gặp chủ nhân làm gì!
Vào phòng gặp phụ tá, kỳ này là 1 bà già vòng số một đã thành "mướp", bà ngồi vào bàn phải bưng 2 trái mướp để lên bàn rồi mới ngồi sát vào thành bàn ký giấy tờ cho tôi, tôi chịu hết nỗi phát lên cười nhưng ngại họ biết nên che mặt giả vờ ho sặc sụa!
Từ giã bà phụ tá tôi đi ngay ra xe, thiệt là xui sao chiếc xe lại nỗi chứng không nổ máy!!! Thế là thiên hạ chung quanh bu lại xe tôi giúp, người thì bảo để chuyền điện, kẻ thì đề nghị để họ đẩy lấy trớn, tôi thì cứ một mực từ chối lia lịa! Trong bụng cầu trời cho chiếc xe nổ máy dùm!!!!
Bạn có biết khi mình ngồi trong xe mà thiên hạ đứng bên ngoài thì cái tầm mắt mình ra sao không!!!!
Cuối cùng tôi cũng trở về lại nhiệm sở, trình cho xếp lớn, đám bạn làm chung với tôi nó cười chọc quê tôi quá xá, té ra họ "cố tình" cho tôi đến xét nơi đó là "Trại khỏa thân", ai cũng biết...trừ tôi !!!!
MN
10/19/2019
viết theo truyện thật của một cô bạn
via
Bỗng một ngày “đẹp trời” nào đó, bạn nổi hứng muốn mặc một chiếc áo thun ra đường. Ôi, không! Đời không như mơ, chiếc áo mà bạn thích nhất lại có một mùi hôi kinh khủng do áo chưa khô mà bạn đã cất vội vào tủ. Bạn lo lắng, hoang mang không biết xử lí ra sao. Đừng lo vội, hãy tham khảo 1 trong 9 cách khử mùi áo thun hiệu quả được chia sẻ ngay sau đây nhé!
Giặt và phơi áo đúng cách nhằm khử mùi áo thun hiệu quả
Đây được coi là nguyên tắc “bất di bất dịch” mà bạn cần phải nắm rõ nếu muốn chiếc áo thun của bạn luôn thơm tho và sạch sẽ. Giặt và phơi áo đúng cách sẽ giúp chiếc áo luôn bền màu, chất lượng áo luôn được đảm bảo và bạn sẽ luôn tự tin diện chúng mọi lúc mọi nơi.
Nguyên tắc trước và trong khi giặt áo
[caption id="attachment_2300" align="aligncenter" width="600"] Giặt áo thun đúng cách là phương pháp giúp loại bỏ mùi hôi tối ưu[/caption]
Nếu bạn diện bất kì một bộ quần áo nào mặc cả ngày thì tốt nhất bạn nên giặt chúng càng sớm càng tốt bởi những hoạt động trong ngày, cơ thể ra mồ hôi nhiều kết hợp với bụi bẩn, mùi thức ăn sẽ là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn gây mùi hoạt động mạnh hơn. Thế nên, đừng làm những anh chàng, cô nàng “mèo lười” với tư tưởng “để mai kia giặt có chết ai” đâu nha!
Giặt quần áo càng sớm càng tốt sẽ giúp loại bỏ mùi hôi và chất bẩn một cách hiệu quả. Trước khi giặt, bạn có thể ngâm qua quần áo với xà phòng, đặc biệt chú trọng các phần nách áo, cổ áo vì đây là những chổ dễ ám mùi khó chịu. Một lưu ý cho bạn là với áo thun, bạn nên giặt với nước lạnh thay vì nước nóng bởi nếu không chúng sẽ rất dễ bị co giãn và mất dáng áo. Đặc biệt, áo thun đồng phục, ngoài việc tránh giặt áo với nước quá nóng, bạn cần phải lựa chọn những loại bột giặt có tính tẩy rửa nhẹ để tránh làm áo bị phai màu hay bong tróc hình in.
Nguyên tắc sau khi giặt áo, phơi áo
Khi quần áo của bạn đã được giặt sạch và hết mùi hôi thì bạn cần phải thật nhẹ nhàng khi vắt khô áo. Hãy tránh việc vắt áo quá mạnh sẽ làm áo thun dễ bị biến dạng do sợi vải khi có lực xiết quá mạnh sẽ rất dễ bị giãn ra và làm nhăn áo.
Trước khi phơi, hãy lộn trái mặt áo và phủ áo nhẹ để áo được phẳng và tránh hình in bị dính vào nhau khi áo khô. Đặc biệt, thay vì phơi áo ở những nơi có ánh nắng quá gay gắt, hãy tận dụng những khoảng không gian thông thoáng để cho áo khô tự nhiên, tránh làm áo dễ bị phai màu.
Ngắn gọn với 2 nguyên tắc ban đầu rất nhỏ thôi nhưng là một giải pháp rất hiệu quả không những đảm bảo chiếc áo của bạn tránh xa được những mùi hôi khó chịu mà còn đảm bảo được độ bền và chất lượng tốt nhất.
Tổng hợp 9 cách khử mùi áo thun hiệu quả
Có rất nhiều những nguyên nhân dẫn đến chiếc áo thun của bạn bị ẩm mốc, ám mùi như: áo khó khô vào mùa mưa, áo bị ám mùi hoặc dính thức ăn khó làm sạch, áo phơi tại những nơi có độ ẩm cao, áo để chung với các quần áo bẩn khác và lâu ngày không giặt,...Đó chính là những nguyên nhân chính làm chiếc áo thun của bạn có mùi không dễ chịu chút nào. Nếu không may gặp phải trường hợp trên, hãy làm theo 1 trong những mẹo nhỏ dưới đây chắc chắn sẽ trả về cho bạn một chiếc áo thơm tho như mới.
Sử dụng giấm trắng
Giấm là sản phẩm chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm các vitamin, axít amin và các axít hữu cơ, chúng được áp dụng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, làm đẹp, y tế,..Và trong cuộc sống hàng ngày, giấm trắng sử dụng để làm sạch các chất bẩn bám trên các vật dụng, thậm chí giấm cũng là một dung dịch giúp khử mùi hôi trên áo thun rất hiệu quả.
Nếu áo thun của bạn hay bất cứ một quần áo nào khác không may gặp phải mùi hôi khó chịu thì bạn hãy pha loãng giấm trắng với nước sạch và ngâm quần áo từ 30 phút đến 1 tiếng, sau đó giặt sạch và phơi khô, mùi hôi sẽ biến mất hoàn toàn. Bạn đừng lo mùi giấm trắng sẽ ám lên quần áo bởi sau khi khô mùi giấm sẽ tự động biến mất.
Baking soda
Baking soda hay còn gọi là thuốc muối hay muối nở, chúng được sử dụng trong làm đẹp, vệ sinh vật dụng, nhà cửa. Về tác dụng khử mùi, chúng không chỉ giúp khử mùi cơ thể mà còn khử mùi quần áo rất hiệu quả.
Bạn hãy cho bột baking soda vào trong nước sạch, khuấy cho tan rồi ngâm quần áo từ 30 phút đến 1 tiếng sau đó giặt lại bình thường.
Sử dụng tinh dầu thiên nhiên
Tinh dầu thiên nhiên sử dụng những thành phần từ thiên nhiên để chế biến ra một loại chất lỏng, phục vụ cho mục đích làm đẹp hay tạo mùi hương giúp thư giãn. Phần lớn, tinh dầu được chiết xuất từ cánh hoa, rễ cây, hạt hay vỏ của một số các loại cây. Chúng có một mùi hương rất dễ chịu và mang lại cảm giác thư thái, khoan khoái đến khứu giác người dùng. Thế nên, cũng dễ hiểu vì sao tinh dầu được liệt kê trong danh sách này giúp khử mùi hôi áo thun.
Bạn có thể cho trực tiếp một vài giọt tinh dầu trong khi giặt hoặc có thể pha hỗn hợp tinh dầu với hàm lượng như sau: 1 ly nước + 1 ly giấm trắng + 3,4 giọt tinh dầu thiên nhiên cho vào một bình phun sương và phun trực tiếp lên quần áo khi giặt. Tùy vào sở thích mà bạn có thể sử dụng các loại tinh dầu khác nhau như: tinh dầu hoa oải hương, tinh dầu gừng, tinh dầu hoa lavender, tinh dầu hoa hồng, tinh dầu bưởi, chanh, cam,...
Ngâm áo với nước muối
Muối là một loại khoáng chất mang lại lợi ích về mặt sức khỏe rất tốt cho con người. Thậm chí muối còn được sử dụng trong y tế cũng như đời sống thường ngày. Trong việc giặt quần áo, muối có tác dụng tẩy các vết bẩn trên quần áo, khử mùi hôi rất hiệu quả. Bạn hãy pha từ 3 đến 4 muỗng muối vào trong 1 lít nước và ngâm áo thun của bạn vào trong đó 30 phút, mùi hôi sẽ được cải thiện.
Chanh tươi
Chanh có chứa hàm lượng axit xitric giúp làm sạch, làm sáng quần áo hiệu quả. Bạn hãy vắt lấy nước cốt chanh pha loãng với nước sạch, ngâm áo vào trong đó sau đó giặt sạch lại. Ngoài ra, đối với những chỗ có vết bẩn cứng đầu, bạn có thể thoa trực tiếp nước cốt chanh lên trên đó để tăng hiệu quả.
Ngâm áo với nước vo gạo
Nước vo gạo là chế phẩm thường bị các gia đình đổ đi khi nấu cơm hàng ngày. Tuy nhiên, nước vo gạo có chứa vitamin B5 rất tốt cho việc làm đẹp, làm sạch, khử độc tố thậm chí đây cùng là một trong những phương pháp loại bỏ mùi hôi trên áo thun rất tốt.
Nếu quần áo có mùi khó chịu, hãy ngâm chúng với nước vo gạo từ 1 đến 2 tiếng rồi giặt sạch lại với bột giặt và đem phơi khô.
Sử dụng vỏ cam
Tận dụng vỏ cam để khử mùi hôi và làm thơm áo quần cũng rất tốt bởi trong vỏ cam có chứa tinh dầu thơm rất dễ chịu. Đơn giản, bạn hãy đun sôi vỏ cam với nước, để nguội và sau đó ngâm quần áo từ 1 đến 2 giờ rồi giặt sạch lại với nước.
Nước cốt bí đao
Đối với các chị em phụ nữ, nước cốt bí đao là loại thức uống tuyệt vời giúp giảm cân và làm đẹp da. Hơn nữa, nước cốt bí đao còn giúp loại bỏ vết ố vàng cũng như khử mùi hôi khó chịu trên quần áo.
Sử dụng bã café
Bã café có công dụng làm phân bón cho cây, làm sạch và khử mùi rất tốt. Bạn có thể cho bã café vào trong một chiếc túi lọc rồi cho vào tủ quần áo để giúp hấp thụ mùi hôi hiệu quả.
Hi vọng với 9 cách khử mùi áo phông hiệu quả kể trên đã giúp bạn luôn có được những chiếc áo sạch sẽ, thơm tho đồng hành cùng bạn trong cuộc sống thường ngày.
Đọc nguyên bài viết tại :
9 cách khử mùi áo thun hiệu quả
Sinh nhật luôn là một dịp đặc biệt để gửi gắm yêu thương, thể hiện sự quan tâm và xây dựng mối quan hệ gắn bó với người thân, bạn bè hay đồng nghiệp. Một món quà sinh nhật không cần quá đắt tiền nhưng phải phù hợp, tinh tế và mang lại cảm xúc cho người nhận. Tại Wiix Gift , chúng tôi mang đến bộ sưu tập quà tặng sinh nhật đa dạng và cao cấp, đáp ứng nhu cầu lựa chọn quà tặng cho mọi đối tượng từ bạn trai, bạn gái, bố mẹ, sếp cho đến đối tác hoặc trẻ nhỏ.
Với hàng trăm mẫu sản phẩm được tuyển chọn kỹ lưỡng, Wiix Gift giúp bạn dễ dàng tìm được món quà sinh nhật ý nghĩa, thiết thực và sang trọng, đồng thời thể hiện trọn vẹn thông điệp mà bạn muốn gửi gắm.
Quà sinh nhật cho nam giới
Lựa chọn quà tặng sinh nhật cho nam thường hướng đến sự lịch lãm, mạnh mẽ và thiết thực. Wiix Gift mang đến nhiều sản phẩm phù hợp để làm quà tặng cho bạn trai, chồng, bố, anh trai hoặc sếp nam.
Đầu tiên là dòng sản phẩm combo cà vạt 4 món với thiết kế sang trọng, tinh tế và phong cách doanh nhân hiện đại. Các mẫu như WD-CB01, WD-CB02, WD-CB10, WD-CB12 hay WD-CB15 đều đi kèm cà vạt vải lụa, khuy măng, khăn tay bỏ túi áo vest và hộp quà cao cấp. Đây là món quà được nhiều khách hàng lựa chọn làm quà sinh nhật cho sếp nam, bố hoặc bạn trai làm trong môi trường công sở.
Bên cạnh đó, đồng hồ nam Mini Focus cũng là một trong những món quà sinh nhật được yêu thích. Với thiết kế đa dạng từ thể thao đến cổ điển, các mẫu như MF0473G.01, MF0473G.05, MF0422G-02 hay MF0414G-03 đều phù hợp với nhiều độ tuổi và phong cách. Đồng hồ không chỉ là phụ kiện thời trang mà còn mang ý nghĩa về thời gian, trách nhiệm và sự trân trọng mối quan hệ.
Thắt lưng da bò nguyên miếng cũng là lựa chọn phổ biến cho những ai đang tìm kiếm quà sinh nhật cho bố hoặc bạn trai. Các mẫu như TLD-WD03, TCD-WD06, TLD-WD14 mang phong cách Âu Mỹ hiện đại, chất liệu bền bỉ và phù hợp với nhiều phong cách trang phục.
Nếu bạn cần một món quà sinh nhật mang tính biểu tượng và trang trọng, bút ký tên cao cấp từ thương hiệu Montagut hoặc Parker sẽ là lựa chọn lý tưởng. Với thiết kế kim loại sang trọng, vỏ sơn tĩnh điện, ngòi mượt và đóng hộp cao cấp, đây là món quà thích hợp dành tặng sếp nam, đồng nghiệp hoặc đối tác trong dịp sinh nhật hoặc sự kiện quan trọng.
Quà sinh nhật cho nữ giới
Việc chọn quà sinh nhật cho nữ giới đòi hỏi sự tinh tế và thấu hiểu sở thích cá nhân. Tại Wiix Gift , bạn có thể dễ dàng lựa chọn những món quà sinh nhật vừa đẹp mắt, vừa thể hiện được sự quan tâm và chu đáo dành cho mẹ, vợ, bạn gái, sếp nữ hoặc đồng nghiệp nữ.
Khăn quàng cổ là một trong những sản phẩm quà tặng sinh nhật cho nữ được yêu thích nhất. Các mẫu khăn len Cashmere như KQ-WD01 đến KQ-WD24 có chất liệu mềm mại, ấm áp, phối màu trang nhã và thích hợp dùng trong nhiều mùa. Ngoài ra, dòng khăn lụa họa tiết hoa sen, hoa hướng dương hoặc lấy cảm hứng từ tranh Van Gogh mang lại vẻ đẹp nghệ thuật, sang trọng và khác biệt.
Ghim cài áo đính đá là món quà phù hợp cho phụ nữ yêu thích sự thanh lịch, tinh tế. Các mẫu ghim hình bông hoa, phượng hoàng, giọt nước, chim công được chế tác tinh xảo, giúp tôn lên vẻ đẹp trang phục và là điểm nhấn cho phong cách cá nhân. Đây là lựa chọn tuyệt vời để làm quà sinh nhật cho mẹ, sếp nữ hoặc bạn gái.
Ví da mini cũng là món quà sinh nhật thiết thực và thời trang. Các mẫu ví WD-VN01 đến WD-VN06 được làm từ da cao cấp, thiết kế nhỏ gọn, nhiều ngăn tiện lợi và phù hợp với phong cách hiện đại của nhiều chị em phụ nữ.
Đối với những ai yêu thích không gian sống đẹp và mang tính cá nhân hóa, Wiix Gift còn có các mẫu đèn trang trí epoxy độc đáo. Đèn có kiểu dáng hiện đại, mô phỏng hình ảnh thiên nhiên như biển, đại dương, vũ trụ, giúp tạo điểm nhấn cho góc làm việc hoặc phòng ngủ. Đây là món quà sinh nhật ý nghĩa dành tặng người yêu, bạn thân hoặc những người có gu thẩm mỹ riêng biệt.
Quà tặng sinh nhật cho sếp và đối tác
Tặng quà sinh nhật cho sếp hay đối tác cần đảm bảo sự trang trọng, chuyên nghiệp nhưng vẫn mang dấu ấn cá nhân. Tại Wiix Gift , bạn có thể tìm thấy các dòng sản phẩm quà tặng doanh nghiệp phù hợp và được nhiều khách hàng tin chọn.
Bút ký cao cấp từ thương hiệu Montagut, Parker hoặc các dòng cao cấp hơn là món quà thể hiện sự tôn trọng và lịch thiệp. Sản phẩm được đóng hộp sang trọng, có thể khắc tên theo yêu cầu, phù hợp làm quà sinh nhật cho sếp hoặc đối tác doanh nghiệp.
Các set combo cà vạt 4 món hoặc 8 món như SCVN8-001 đến SCVN8-010 mang đến lựa chọn đa dạng với hộp quà thiết kế riêng, màu sắc nhã nhặn, đậm phong cách doanh nhân. Những mẫu cà vạt này phù hợp làm quà sinh nhật cho sếp nam, người lãnh đạo hoặc đối tác nam trong ngành tài chính, bất động sản, công nghệ.
Wiix Gift còn cung cấp các sản phẩm như ống đựng bút pha lê K9, khuy măng khảm trai, kẹp cà vạt đính đá giúp bạn tạo ấn tượng với người nhận trong các mối quan hệ công việc và ngoại giao.
Quà sinh nhật cho trẻ em
Đối với trẻ nhỏ, quà sinh nhật cần đảm bảo sự an toàn, thân thiện và khơi gợi trí tưởng tượng. Wiix Gift mang đến những sản phẩm quà sinh nhật cho bé như đèn ngủ hình vũ trụ, mô phỏng dải ngân hà, đại dương hoặc các mẫu đồng hồ thời trang trẻ trung.
Những món quà này không chỉ mang tính thẩm mỹ cao mà còn giúp bé khám phá thế giới xung quanh một cách sinh động, góp phần phát triển khả năng cảm thụ nghệ thuật từ sớm.
Dịch vụ gói quà và giao hàng tại Wiix Gift
Khi mua hàng tại Wiix Gift , bạn không chỉ nhận được sản phẩm chất lượng cao mà còn được hỗ trợ gói quà miễn phí với hộp quà sang trọng, giấy gói cao cấp và thiệp chúc mừng. Bạn có thể yêu cầu in tên người nhận, viết lời chúc cá nhân hóa hoặc lựa chọn màu sắc gói quà theo sở thích.
Chúng tôi giao hàng nhanh trên toàn quốc, hỗ trợ đổi trả nếu sản phẩm bị lỗi do vận chuyển hoặc không đúng mô tả. Mỗi đơn hàng được xử lý nhanh chóng, đảm bảo thời gian giao đúng cam kết, giúp bạn luôn chủ động khi cần tặng quà đúng dịp sinh nhật.
Kết luận
Wiix Gift không chỉ là nơi bán quà tặng sinh nhật mà còn là nơi bạn tìm thấy những món quà mang ý nghĩa kết nối, tri ân và yêu thương. Với hơn 500 sản phẩm được chọn lọc kỹ lưỡng, từ combo cà vạt cho nam, khăn lụa cho nữ, bút ký, đồng hồ cho đến các sản phẩm decor và quà tặng doanh nghiệp, Wiix Gift đáp ứng mọi nhu cầu tặng quà trong các dịp sinh nhật.
Chúng tôi tin rằng, một món quà đúng thời điểm và đúng người sẽ là cầu nối vững chắc cho mọi mối quan hệ. Hãy để Wiix Gift đồng hành cùng bạn trong hành trình lan tỏa yêu thương qua từng món quà sinh nhật được trao tặng.
Truy cập website chính thức của Wiix Gift để xem thêm nhiều mẫu quà sinh nhật đang được ưa chuộng và đặt hàng nhanh chóng. Chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn để giúp bạn tìm được món quà hoàn hảo cho người thân yêu.
Nguồn:
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
Ngày này, công nghệ trang trí bằng đèn LED đã và đang được sử dụng rộng rãi trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống. Từ nội thất của các tòa nhà hay cao ốc, văn phòng đến ngoại thất trên phố với những bảng hiệu quảng cáo, hành lang, ban công, sân vườn nhà ở, hàng quán… thậm chí người ta sử dụng đèn led trang trí cây. Tất cả đều được trang trí trong những khoảng sáng lung linh huyền ảo nhờ việc sử dụng các sản phẩm ứng dụng từ công nghệ đèn led trang trí như đèn led ốp trần. Nhu cầu sử dụng sản phẩm phù hợp với mỗi loại không gian ngoại thất của người dùng đặt ra yêu cầu cần chọn được loại đèn trang trí vừa đảm bảo chiếu sáng an toàn vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ cho không gian. Đây thực sự trở thành một bài toán khó cho việc trang trí không gian nếu người dùng không có những hiểu biết nhất định về nó.
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-am-tran-downlight/
Sử dụng đèn Led chiếu sáng ngoại thất như một lời giải ưu việt cho bài toán trên. Đáp ứng được nhu cầu người dùng cũng như nắm bắt rõ đặc điểm ngoại thất là không gian mở, các Nhà sản xuất đèn ngoại thất Led đã cho ra các sản phẩm đồng bộ với những kiểu dáng và kích thước khác nhau, những tính năng sử dụng và mục đích cụ thể trong từng sản phẩm dành riêng cho ngoại thất mà đèn nội thất không thể thay thế.
Đèn Led chiếu sáng ngoại thất thường được sản xuất từ những vật liệu bền vững như: nhựa, inox, nhôm, hợp kim… với cấu trúc kín đáo, hình dáng đèn thô nhưng khoẻ để chống chọi với thời tiết thiên nhiên.
Đèn Led sử dụng chiếu sáng ngoại thất phải kín để chống bị dính nước phun vào và côn trùng xâm nhập. Tuy nhiên, trong một mức độ ngập nước nhất định, một số sản phẩm vẫn có thể hoạt động được bởi phần dây điện nối với bóng đèn thường ở phía trên của chân đèn nên đèn vẫn có thể không bị chập điện và hoạt động được khi nước chưa ngập.
Vị trí lắp đèn tùy thuộc vào mục đích người sử dụng. Có thể lắp đèn trên tường ngoài nhà, thân cột, đầu cột tường rào, biển hiệu, đường phố, dọc lối đi, bên cạnh bụi hoa… với những bộ đèn ngoại thất khác nhau: đèn nấm, đèn cây…đáp ứng nhu cầu chiếu sáng rất phong phú của người dùng và đảm bảo mỹ quan cho một ngoại thất với không gian được chiếu sáng đẹp.
>>> Xem thêm:
denledhanquoc.com.vn/danh-muc/den-led-pha/
Tính năng riêng biệt của đèn Led ngoại thất là được lắp thêm bộ cảm nhận hồng ngoại để có thể tự động thắp sáng, hoặc lắp thêm pin mặt trời kết hợp bóng đèn LED công suất thấp, luôn đảm bảo ánh sáng khi chiếu đèn. Dựa vào những cách thức chiếu sáng sau đây người dùng có thể chọn cho mình một bộ đèn ngoại thất ưng ý, tô điểm cho không gian thêm hấp dẫn.
Đèn Led chiếu sáng chung: Toàn bộ khu vực ngoại thất được bố trí đèn để chiếu sáng, các trường hợp sử dụng chiếu sáng chung này thường là trong các buổi dạ tiệc ngoài trời hay dọn dẹp buổi tối.
Đèn Led chiếu sáng nhấn: một vài khu vực như non bộ, tượng… cần được chiếu sáng để thu hút sự chú ý thị giác buổi tối và hướng định ánh sáng không gian sẽ sử dụng đèn led chiếu sáng nhấn mang đến cho không gian một sức hút nổi bật.
Đèn Led chiếu sáng trang trí: đèn Led được bố trí để làm cho không gian ngoại thất thật sự phong phú trong một vùng sáng rộng như chiếu sáng để làm nổi mảng tường đá sần sùi, chiếu hất ngược lên bụi hoa… giúp không gian một nhà hàng, khách sạn hay một buổi dạ tiệc, bữa tối trong vườn ý nghĩa hơn.
Màu sắc khi phối hợp ánh sáng với không gian cần hài hòa một cặp, không quá tương phản cũng không nhạt nhòa quá, làm giảm đi phần thú vị của không gian.
Với nền kinh tế phát triển như hiện nay, con người không chỉ chăm chút riêng cho không gian nội cư trú của mình mà không gian ngoại thất cũng được chú trọng vô cùng, bởi đó có thể là môi trường làm việc, kinh doanh, học tập hoặc giải trí. Đèn Led ngoại thất càng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ánh sáng chỉ lối cho không gian sống của con người.
>>> Tham khảo:
Đối với những chàng trai yêu thích sự năng động và trẻ trung thì nên kết hợp quần jean cùng áo phông để đi kèm với áo khoác dạ dáng dài. Bổ sung thêm đôi giầy thể thao, bạn sẽ có ngay set đồ hoàn hảo. Đây chính là cách phối đồ được rất nhiều đấng mày râu ưa thích bởi tính tiện dụng.
Cách phối đồ với áo khoác dạ nam dáng dài phong cách và thanh lịch